TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
Tác giả : THÍCH QUẢNG TRÍ
(Kỳ 28)
CHƯƠNG III
ĐƯỜNG HƯỚNG GIÁO DỤC
Ngày nay, trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ, con người đã bị xô đẩy vào trong hố thẳm của tham vọng vật chất. Cho nên, trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh v.v… vẫn còn đe dọa đời sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có nhiều nỗi lo lắng sợ hãi mới như: nạn nhân mãn, ô nhiễm môi trường, hủy diệt sinh thái, áp lực kinh tế xã hội đè nặng lên tâm trí của con người, tạo nên ức chế tâm lý, băng hoại đạo đức, làm mất thăng bằng giữa đạo đức và cuộc sống.
Trong tình hình ấy, xã hội cần có những bàn tay không “trụ tâm thủ tướng” của các vị Bồ tát với tinh thần giáo bằng con đường thiết thực nhân bản, Duyên sinh Vô ngã, với phương châm Từ Bi Hỷ Xả, xóa bỏ chấp thủ, xóa bỏ hận thù mới có thể hóa giải mọi khổ đau cho nhân loại. Bởi vì, như lời dạy của Đức Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, có khả năng thực hiện niềm hạnh phúc chân thực ngay trong cuộc đời này.
Phật giáo lấy “Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sanh” làm cơ sở giáo dục. Nói một cách tổng quát, tất cả cùng tuyệt đối về Phật tính bình đẳng, song vì giới hạn căn tính chúng sanh vốn sai biệt bất đồng mà tư tưởng giáo dục có cao thấp để thích ứng mọi căn cơ. Điều này đã chứng minh qua suốt thời gian giáo hóa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã tùy căn cơ giáo hóa, chính vì thế mà giáo đoàn của Ngài không phân biệt giai cấp sang hèn, tất cả đều được giáo dục.
Người truyền đạt đòi hỏi cần phải hội đủ các yếu tố: luôn với tâm vô ngã, vị tha, bình đẳng, vì chúng sanh tuy sai biệt nhưng Phật tính như nhau (Phật tính bình đẳng); phải đem tâm ngay thẳng (trực tâm), dùng cái tâm sâu xa mầu nhiệm (thâm tâm) và phát khởi tâm Bồ đề rộng lớn. Có như vậy, giáo dục Phật giáo mới mang đến đầy đủ đức tính Từ Bi, Trí Tuệ và Lợi Tha, thích ứng trong công cuộc thể nhập vào quần chúng xã hội.
Đầu tiên, nhà giáo dục Phật giáo cần học hỏi và hiểu rõ giáo lý phổ thông của Đức Phật, đồng thời nghiên cứu quán triệt các pháp môn Luận lý, Biện chứng và Triết học trong Phật giáo cũng như thế gian. Bên cạnh đó, ngôn ngữ là phương pháp truyền đạt giáo dục đắc lực nhất trong Phật học cũng như các trường ngoài xã hội, người làm giáo dục cần phải biết nhiều ngoại ngữ thì càng tốt. Đồng thời, người làm giáo dục phải nắm bắt thời đại để cho phù hợp và phát triển con người cũng như xã hội qua Ngũ Minh, Tứ Nhiếp Pháp, hành Lục Độ Ba-la-mật của Phật giáo. Điểm quan trọng, cương yếu là trong giáo dục phải luôn song hành ba yếu tố Đức dục, Thể dục và Trí dục.
Cụ thể, giáo dục Phật giáo không ngoài ba phương châm Giới – Định – Tuệ, Bi – Trí – Dũng và Văn – Tu – Tư nhằm đối trị và triệt tiêu toàn bộ ba độc Tham, Sân, Si. Phương pháp giáo dục không cứng nhắc cố định, mà nó uyển chuyển thu gom trong ba chuyên từ, đó là Khế lý, Khế cơ và Khế thời.
Ngoài ba đặc chất trên, giáo dục Phật giáo còn có những tính chất sau đây:
Phật giáo lấy con người làm đối tượng và cứu cánh cũng ở con người. Giáo dục Phật giáo không chối bỏ con người để tìm kiếm một Thần Thánh nào khác ngoài con người. Về phương diện nhân sinh quan, Phật gíao dạy ta hoàn thiện con người của ta ngay trong hiện tại. Về phương diện thế giới quan, Phật giáo không dạy con người chán đời yếm thế để cầu về một cõi hư ảo xa xôi. Tư tưởng nhất thừa dạy ta rằng: sinh tử – niết bàn là một; phiền não – bồ đề không hai; nhân gian – tịnh độ là một, tức thân thành Phật thì Tịnh độ ngay tại cõi Ta bà này.
Nói như vậy không có nghĩa là bác bỏ tư tưởng “Tịnh độ vãng sanh” mà ở đây muốn đề cao tinh thần giáo dục tự thân, tự lực nhằm phát triển trí năng của con người hơn là nhờ vào tha lực.