ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 10)
QUYỂN THỨ TƯ
(15 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
Nước Tốt Lục Cần Na, chu vi sáu ngàn dặm. Phía đông giáp sông Hằng. Phía bắc giáp núi cao và giữa có sông Các Mâu Na. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm, Phía đông sông Các Mâu Na, phần nhiều còn hoang vu ít ai đặt chân đến. Đất đai phong thổ tốt tươi như nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La. Tánh tình dân chúng thuần hậu chất phác. Họ tin theo Ngoại Đạo, tu Phước và Huệ. Có năm ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa thuộc Tiểu Tập Du Bộ.
Thường nghiên cứu huyền nghĩa của Luận và tìm cầu so sánh với những luận khác. Có hơn 100 ngôi đền nhưng ngoại đạo rất đông. Thành lớn ở phía đông của sông Cát Mâu Na, có một ngôi Bảo Tháp do vua A Dục dựng. Ngày xưa Như Lai đã từng trú ở đây để thuyết pháp độ sanh. Có một ngôi Bảo Tháp nữa, trong đó có thờ tóc và móng tay của Như Lai. Cũng có những tháp nhỏ, thờ tóc và móng tay của ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên và ngài La Hầu La, chung quanh có hơn mười ngôi như thế.
Sau khi đức Như Lai diệt độ rồi, nước nầy vì ngoại đạo lầm lẫn nên bị quở phạt. Họ tin theo tà pháp tổn hại chánh kiến. Hiện tại có năm ngôi Già Lam, nơi mà các luận sư nước ngoài tranh luận cùng ngoại đạo Bà La Môn. Từ phía đông của sông Cát Mâu Na đi hơn 800 dặm nữa, đến sông Hằng. Bình nguyên của sông rộng ba dặm tư. Phía đông nam chảy vào biển rộng hơn 10 dặm. Nước màu lóng lánh chảy xiết, nhiều quái vật nhưng không hại. Nơi đây đất cát rất đẹp.
Tục lệ ở đây ghi lại rằng đó là nước của Phước Đức. Cho nên ai có tội xuống tắm thì sẽ hết tội. Khi dầm mình xuống đó, tái sanh về cõi Phạm Thiên. Hài cốt người chết nhúng xuống nước sông nầy, hương hồn không bị đoạ vào Ác Thú. Sóng nước đưa thần thức đầu thai. Lúc ấy ở nước Chấp Sư Tử (Tích Lan hiện nay), có Bồ Tát Đề Bà thâm chứng về thật tướng của các pháp tánh, buồn thương cho những kẻ ngu muội đã đến đây bị ngoại đạo dụ dỗ, bảo đàn bà và thiếu nữ tập họp lại thành đoàn từ nơi bờ sông làm cho nổi sóng nước. Bồ Tát Đề Bà dùng ánh sáng kéo đầu họ lại cho nên ngoại đạo bảo rằng:
– Ta khác họ cái gì?
Bồ Tát đáp:
– Cha mẹ tôi và thân tộc đang ở tại nước Chấp Sư Tử sợ khổ não đói khát cho nên mới đi xa.
Ngoại Đạo nói:
– Ta có gì sai đâu? chưa hề quên đi việc làm đấy. Đất nước của Ta có sông rộng có núi cao tạo nên nước nầy chung quy để cứu mọi người khỏi đói khổ. Đến nơi nầy để tìm cầu như trước. Chẳng nghe như thế sao?
Bồ Tát Đề Bà đáp:
– Làm sao nước sông và núi kia cứu được tội lỗi chất chồng?
Thời bấy giờ ngoại đạo nghe xong cảm tạ cúi đầu thuận quy Chánh Pháp. Sau khi hối cải, nguyện phụng trì Chánh Pháp. Sau khi qua sông ở bờ phía đông đến nước Châu Đệ Bổ La.
Nước Châu Đệ Bổ La, chu vi 6000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng chuyên về trồng lúa mạch, có nhiều hoa quả. Khí hậu ôn hoà. Gió mưa đều đặn. Họ tôn sùng học thuật, tin sâu tà chú. Cả chánh lẫn tà họ tin như nhau. Nhà Vua thuộc dòng Tuất Đạt La chẳng hề tin kính Phật Pháp mà tin Phạm Thiên. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 800 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Đại Thừa Giáo của Bộ Phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ, ngoại đạo sống tạp nhạp với nhau.
Thành lớn phía nam đi hơn bốn dặm rưỡi, đến một Già Lam nhỏ. Có hơn 50 Tăng Sĩ. Ngày xưa luận sư Cù Noa Bác Tà Bà (Đức Quang) cũng ở tại nầy soạn ra Bàng Chơn Đẳng Luận. Trong hơn một trăm bộ phái, luận sư thuộc phái Tiểu Thừa nhưng là người thông minh, tài giỏi, mẫn tiệp, học nhiều, hiểu rộng và còn uyên bác cả Giáo Lý Đại Thừa nữa. Vì đọc Tỳ Bà Sa, nên Ngài tu theo Tiểu Thừa và sáng tác hơn mười bộ luận, trở thành người chấp trước Tiểu thừa, phản đối giáo nghĩa Đại Thừa. Ngài còn soạn hơn mười bộ Tục Thơ. Nhưng luận chứng của Ngài không bài xích những bậc tiền bối mà tư tưởng Giáo nghĩa Phật lý rất uyên áo, đến hơn mười thể loại, không thể diễn nói hết. Ngài còn nghiên tầm những tinh tuý và những nghi vấn đã từ lâu chưa giải quyết được.
Lúc ấy vì có Đề Bà Tê Na (Thiên Quân A La Hán) thường lên xuống cõi trời Đâu Suất, gặp đức Di Lặc để thỉnh hỏi điều nghi, cho nên Ngài cũng dùng thần lực lên đó, cầu gặp đức Di Lặc. Thấy đức Di Lặc từ xa nhưng ngài không vái chào. Rồi lại nghĩ rằng đức Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật, sao mình còn tự cao chưa đến kính lễ. Mình muốn thọ giáo mà lại không chịu kính phục. Ngài Đức Quang lại nghĩ rằng Tôn giả thường có những lời nói thành thật làm kim chỉ nam, nhưng mình là những đệ tử xuất gia đã thọ giới Cụ túc làm Tỳ Kheo.
Còn ngài Bồ Tát Từ Thị hưởng phước lạc của chư thiên nhưng chưa xuất gia làm tăng lữ. Mình thi lễ e rằng không đúng oai nghi. Bồ Tát biết rõ tâm ngã mạn của ta, và cũng biết chẳng phải là pháp khí. Lên xuống ba lần như thế nhưng chẳng giải quyết được gì. Bèn thỉnh ngài Thiên Quân để lễ. Ngài Thiên Quân biết rằng kẻ kia ngã mạn, nên không đối đáp. Nhưng tâm của ngài Đức Quang chẳng hề thối lui. Giận khởi lên, ngài vào rừng sâu tu tập một thời gian chứng được định tuệ, mới biết rằng ngã mạn chưa trừ chẳng chứng được đạo quả.
Phía bắc của chùa Đức Quang cách ba dặm tư có một Đại Già Lam, có hơn 200 Tăng Sĩ. Họ đều học tập theo phái Tiểu Thừa, ở nơi mà Ngài Chúng Hiền (Sangha Bhadra) luận sư viên tịch. Luận sư là người Ca Thấp Di La, thông minh lanh lợi từ lúc còn thơ, cho nên đặc biệt nghiên cứu sâu Bộ Luận Tỳ Bà Sa của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Khi ấy có Bồ Tát Thế Thân phát tâm xiển dương giáo điển cho thật minh bạch nên soạn A tỳ đạt ma Câu Xá Luận để phá Luận Tỳ Ba Sa với ý nghĩa thiện xảo, lý lẽ thanh cao. Bộ Luận nầy làm cho ngài Chúng Hiền xem qua lưu ý và phát tâm bỏ ra 12 năm nghiên cứu và soạn Câu Xá Bạt Luận, có 25 ngàn bài tụng và hơn 800 ngàn lời. Ngôn ngữ thâm sâu cao xa vời vợi. Rồi bảo với môn nhân rằng:
– Ta đem sức tàn mà soạn ra Chánh Luận nầy, để phản bác tư tưởng của ngài Thế Thân, không cho lão già đó một mình nêu danh trên diễn đàn.
Vì vậy ông cho 43 người học trò mang luận văn nầy đi tìm gặp ngài Thế Thân.
Lúc đó đang ở trong thành Xá Yết La thuộc nước Lân Ca nghe tin đồn ngài Chúng Hiền sẽ đến tra vấn, ngài Thế Thân chuẩn bị hành trang. Học trò hoài nghi thưa với Ngài:
– Đại sư là bậc đức cao, hiền triết nổi danh đương thời, học trò xa gần đều kính nể phục tài. Mà bây giờ mới nghe tên Ngài Chúng Hiền đã lo lắng như vậy? Chúng con mạnh lắm.
Ngài Thế Thân nói:
– Ta không biết tránh tên nầy ở đâu. Nhìn cả nước, không có ai lịch lãm như kẻ hậu học Chúng Hiền nầy. Nghe nói biện luận rất lưu loát còn ta đã già rồi không thể luận nữa. Nếu nói một lời sanh ra chấp trước. Nên đưa họ đến miền trung Ấn Độ đối chất với những vị tăng khác, mới biết đúng sai, được mất như thế nào.
Một ngày sau, luận sư Chúng Hiền đến chùa nầy bỗng nhiên thần khí thay đổi. Mang sách ra để trước mặt và vọng nói tạ lỗi ngài Thế Thân rằng sau khi Như Lai diệt độ, vì các đệ tử chấp trước bộ phái và truyền lại các môn học trong phạm vi chuyên môn cho nên có sự khác nhau. Tuy cùng gốc nhưng khác ngọn. Con là người ngu chưa rõ cho nên tiếp tục soạn ra A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận để phá Đại nghĩa của luận sư của Tỳ Bà Sa. Chẳng lượng sức mình nên đã nhiều năm nghiên cứu và soạn ra luận nầy để phù trợ cho việc học chánh đáng. Sự hiểu biết thì ít, còn tham vọng thì nhiều, trong khi cái chết gần kề. Trong khi đó, những gì Bồ Tát tuyên dương thật chí lý, chẳng chấp vào có được của di văn, là điều hân hạnh lắm có chết cũng chẳng hối hận.
Các môn nhân cũng xin từ biệt mà thưa rằng:
– Chúng con là kẻ hậu học mà khinh chê bậc tiền bối, thì số phận ra sao?
Nay các người vì ta mang luận nầy và thư nầy đến thay ta sám hối với Bồ Tát. Họ nhận lãnh xong rồi ra đi với thư ấy. Khi đến nơi ngài Thế Thân ở thưa rằng:
– Thầy của chúng con là Chúng Hiền đã xả thọ mạng và có dạy rằng mang thư nầy đến để tạ lỗi, chẳng bỏ sót tên tuổi mà cũng chẳng quên. Bồ Tát Thế Thân xem xong luận rồi trầm ngâm một hồi lâu mà nói với môn nhân rằng:
Luận sư Chúng Hiền là người hậu học nhưng rất thông minh, lý luận tuy chưa đủ nhưng chữ nghĩa thì có dư. Nay ta muốn bài bác Luận nầy của Chúng Hiền chỉ rõ cho minh bạch cho đến chết cũng chưa xong. Quả thật là lời rất khó, huống gì nhân duyên nghĩa lớn còn tồn đọng lại sao. Và huống gì luận nầy còn làm rõ tông phái của mình cho nên ta chỉ đổi thành Thuận Chánh Lý Luận là đủ.
Môn nhân mới thưa rằng:
– Thầy chúng con là Chúng Hiền mất chưa bao lâu mà đã được Ngài sửa đổi luận nầy, chúng con rất vui mừng nhận lãnh.
Bồ Tát Thế Thân vì muốn trừ nghi của chúng, nên nói bài kệ rằng :
Như Vua Sư Tử
Heo thấy liền tránh
Hai lực hơn thua
Người Trí nên biết
Sau khi thiêu xong, hài cốt của Ngài Chúng Hiền thờ trong Bảo Tháp cách chùa phía tây bắc hơn 200 dặm trong rừng Ám Một La đến bây giờ vẫn còn tồn tại.
Từ phía rừng Ám Một La lại có một Bảo Tháp, thờ nhục thân của luận sư Tỳ Mạt La Mạt Đa La (Vô cấu Hữu Vimalamitra). Luận sư là người của nước Ca Thấp Di La. Ngài xuất gia với Bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ, hiểu rộng các kinh điển và nghiên cứu các luận khác. Ưa qua năm nước của Ấn Độ để học Tam Tạng giáo điển. Sau khi tu học thành tựu, Ngài trở về lại quê hương của mình. Trên đường về, ghé Bảo Tháp của Ngài Chúng Hiền than rằng:
Nguỡng bạch luận sư, Ngài là bậc thạc đức cao uyên, vì hoằng dương Luận nghĩa, đã tranh biện với bộ phái khác để giữ tôn chỉ của Bộ Phái mình. Sao ngài không sống lâu nữa. Con không sợ mất mác nhưng buồn vì chưa học được gì về những ý nghĩa sai khác để thay thế cho những sự nhớ mong về đức độ. Ngài Thế Thân tuy mất nhưng Tông của ngài vẫn còn truyền, con đã biết nên đã chế ra các Luận làm cho những người học trong cõi Thiệm Bộ Châu này dù theo Đại Thừa không còn nêu tên tuổi của Ngài Thế Thân nữa.
Phát tâm nguyện, đã dụng hết khả năng mà nói lên lời ấy, liền phát cuồng loạn, máu từ năm căn tuôn ra, liền biết mạng sống đã hết.
Cho nên trong thư có lời sám hối rằng:
Phàm là những ai theo Đại Thừa mà nói về Thuyết cứu cánh của Phật Pháp, khi tên gọi không còn nữa lý mới đến chỗ thanh cao. Vì ngu muội mà khinh chê bài xích sự tiến bộ của bậc tiền bối. Khi phước nghiệp đã hết thì thân nầy không còn nữa. Cho nên mọi người học trong hiện tại, phải biết rằng đừng nên sân hận mà phát chí cao sang, và chớ nên hoài nghi.
Lúc ấy đại địa chấn động, thân mệnh liền mất, rơi vào hầm lửa, những người đi chung thiêu xác và tạo tháp miếu để thờ. Lúc bấy giờ có vị A La Hán thấy Tháp Miếu mà than rằng:
Thật là khổ thay thương thay, vị luận sư nầy đã vì sự chấp kiến, có lời nói ác để hủy báng Đại Thừa mà bị đọa vào Vô gián địa ngục.
Phía tây bắc của nước nầy có sông Hằng. Bên cạnh phía đông có thành Ma Cốt La, chu vi hơn 20 dặm. Những người ở đó thường hay giao lưu với nhau chặt chẽ. Nơi đây cũng sản xuất những đá thủy tinh và đồ kim khí tốt. Rời khỏi thành chẳng bao xa, gặp sông Hằng, bên cạnh đó có một đền thờ rất linh hiển, mà ở trong có một cái hồ có bờ đá bao quanh, lấy nước từ sông Hằng vào và là cửa ngõ của năm nước Ấn Độ. Sông nầy tức là sông sanh Phước diệt tội. những người ở xa thường hay đến đây hơn trăm ngàn người để tắm rửa. Các vị vua có tâm từ thường hay tạo những ngôi nhà từ thiện để chứa thuốc men, bố thí chu cấp cho những người cô độc. Từ phía bắc, đi hơn ba trăm dặm, đến nước Bàng La Hấp Ma Phố Ma.
Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La, chu vi hơn 4000 dặm, núi non bao bọc bốn bề. Đô thành hơn 20 dặm. Người ở đây cũng như nhà cửa rất giàu có. Đất đai dùng để cày cấy và trồng trọt. Nơi nầy sản xuất đá thủy tinh. Khí hậu ít lạnh, gió mưa điều hòa. Phong tục thuần hậu. Tuy nghề nghiệp nhẹ nhưng nhiều lợi tức. Tánh tình cộc cằn, cả tà lẫn chánh đều tin. Có năm ngôi Già Lam, nhưng ít Tăng Sĩ. Có hơn mười ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Biên giới phía bắc giáp núi Hy Mã Lạp Sơn.
Ở trong đó có nước Tô Phạt Sắc Nô Cô Đản La, nơi đây sản xuất vàng rất nổi tiếng. Đông Tây dài. Nam Bắc hẹp, tức là nước Đông Nữ, chỉ có những người đàn bà trị quốc cũng như làm Vua. Họ chẳng biết chánh sự là gì. Còn đàn ông chỉ lo làm ruộng. Đất đai trồng nhiều lúa mạch, có nhiều gia súc như bò, ngựa. Khí hậu lạnh lẽo. Nhân tình thô bạo. Phía đông giáp với nước Thố Phan, Phía bắc giáp với nước Vu Điền. Phía tây giáp với nước Tam Ba Ha. Từ Vị Đệ Phổ La đi xuống phía Đông Nam hơn 400 dặm gặp nước Cù Tỳ Sương Na.
Nước Cù Tỳ Sương Na, chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 14.5 dặm. Dân cư ở nơi đó thuần hậu. Chung quanh bao bọc bởi núi cao. Rừng, núi và hồ ao liên tục với nhau. Khí hậu và đất đai cũng giống như nước Vị Đệ Bổ La. Phong tục thuần chất, thích học hỏi, ưa làm phước. Đa phần tu theo Ngoại Đạo, cầu cho hiện tại được an vui. Có hai ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ, phần lớn tu theo phái Tiểu Thừa. Có hơn 30 ngôi đền thờ. Những ngoại đạo sống chen chúc với nhau.
Có một ngôi Già Lam ở ngoài thành lớn, trong đó có Bảo Tháp, do Vua A Dục xây dựng nên, cao hơn hai trăm thước. Như Lai ngày xưa tại đây, mỗi tháng giảng Pháp một lần. Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành. Nơi đây cũng có hai cái Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai, mỗi tháp cao một trượng. Từ đây đi qua phía đông nam hơn 400 dặm, đến nước Ác Ê Chế Đản La.
Nước Ác Ê Chế Đản La, chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành 17.8 dặm. Nơi nầy hiểm trở. Họ trồng lúa mạch, có nhiều rừng và suối. Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần chất, ngoan đạo, ham học, nhiều tài biết rộng. Có mười ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo phái Chánh Lượng Bộ, thuộc Tiểu Thừa. Có 9 ngôi đền thờ và hơn 300 ngoại đạo. Họ tu theo Tự Tại Thiên và bôi tro vào mình.
Phía bên ngoài thành, có ao rồng và có một Bảo Tháp, do Vua A Dục xây. Nơi đây ngày xưa Như Lai đã vì Long Vương mà thuyết Pháp 7 ngày. Cạnh bên đó cũng có bốn Bảo Tháp nhỏ, chính là nơi bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. Từ đây qua phía đông đi hơn 267 dặm, qua sông Hằng, đến nước Tỳ La Sắc Noa.
Nước Tỳ La Sắc Noa chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Khí hậu và phong thổ giống nước Ác Ê Chế Đản La. Phong tục mạnh mẽ, con người hiểu biết về nghệ thuật, sùng tín ngoại đạo ít kính tin Phật Pháp. Có hai ngôi Già Lam, và 300 Tăng Sĩ tu theo phái Đại Thừa. Có năm ngôi đền thờ Ngoại Đạo sống hỗn tạp với nhau. Trong thành lớn có chùa và có Bảo Tháp, cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng lên. Như Lai ngày trước ở tại nơi đây thuyết kinh Uẩn Giới Xứ. Phía nầy lại có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành.
Từ đây qua hướng đông nam, hơn 200 dặm, đến nước Kiết Tỷ Tha.
Nước Kiết Tỷ Tha chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. Khí hậu đất đai cũng như nước Tỳ La Sắc Noa. Phong tục thuần hòa, người người ưa học, có nhiều nghệ thuật. Có bốn ngôi Già Lam và hơn 1000 người tu theo phái Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu Thừa. Có 10 đền thờ. Ngoại đạo thờ Đại Tự Tại Thiên sống hỗn tạp với nhau. Có một ngôi chùa lớn cách thành phía tây hơn 20 dặm, có những bản kinh khắc rất công phu và tôn tượng các vị Thánh cực kỳ trang nghiêm. Có hơn 100 Tăng sĩ tu theo Chánh Lượng Bộ và hơn 10 ngàn tịnh nhơn cư trú nơi đây.
Chùa rất lớn, thờ Tam Bảo bên trong và ba bên đông nam bắc đều để trống. Đây là nơi đức Như Lai từ cõi Tam Thập Tam Thiên trở về. Ngày xưa đức Như Lai từ rừng Tự Thắng để vào Thiên cung. Ngài ngự nơi Thiện Pháp Đường thuyết Pháp cho mẹ. Sau ba tháng muốn trở lại trần gian. Nên Thiên Đế Thích mới dùng thần lực kiến tạo một cái thang báu toàn bằng vàng ròng, bên trái bằng thủy tinh, bên phải bằng bạc trắng. Đức Như Lai đã từ Thiện Pháp Đường được chư thiên cung tiễn đến thang lầu.
Đại Phạm Vương tay cầm cây phất trần màu trắng đứng chờ ở đầu thang bên phải của thang lầu. Thiên Đế Thích cầm bảo cái bằng thủy tinh đứng chờ ở phía bên phải. Thiên chúng từ hư không rải hoa báu cúng dường và tán thán công đức của Phật. Trăm năm về trước cũng chưa có ai được, và mãi đến bây giờ cũng không cùng tận.
Vua các nước nhớ Ngài cho nên ra lệnh làm một trụ đá quý bằng trân bảo, ghi lại thang báu ngày trước. Trụ nầy cao 70 thước. Bên trên cùng khắc tinh xá, ở giữa khắc tượng Phật. Hai bên phải trái khắc hình Phạm Thiên Đế Thích để ghi nhớ nơi hạ thế của đức Phật. Bên cạnh đó cũng có một trụ đá do Vua A Dục xây cao hơn 70 thước màu sắc trong sáng. Phẩm chất chắc chắn. Bên trên có hình đầu Sư Tử hướng đến cầu thang và khắc những hình tượng khác chung quanh trụ đá nầy. Tùy theo tội phước của mỗi người mà ảnh của mình hiện lên trên trụ đá đó.
Bên cạnh trụ đá không xa, có một Bảo Tháp. Nơi đây ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. nơi Tháp nầy, ngày xưa là nơi của Như Lai tắm rửa. Tháp cũng là nơi Như Lai thiền định. Bên cạnh Tháp có một tảng đá rất lớn dài 50 bước, cao 7 thước. Đây là nơi kinh hành của đức Như Lai, dấu chân của Phật in xuống đó thành hình hoa sen. Hai bên tả hữu đều có những tháp nhỏ do Đế Thích và Phạm Vương kiến tạo nên. Phía trước tháp của Phạm Thiên Đế Thích là nơi mà Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước, nên hóa làm Vua chuyển Luân Vương. Khi Như Lai từ Tự Tại Thiên Cung trở lại Nam Thiệm Bộ Châu. Lúc đó ông Tô Bộ Thị (Thiện Hiện Tu Bồ Đề) đang ở trong động đá suy nghĩ rằng:
Nay Phật từ Thiên Cung trở về, nếu đến đó nghe Phật thuyết Pháp thì sẽ biết được các Pháp Không và Tánh của các Pháp nên dùng Huệ Nhãn để quán Pháp Thân của Phật. Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước nên hóa làm Chuyển Luân Vương, có binh lính theo hầu bốn bên, trải đường đi bằng bảy báu, gặp đức Thế Tôn và thưa rằng:
– Con là Tỳ Kheo Ni.
Lúc ấy đức Như Lai bảo rằng:
– Ngươi không phải là người đón ta đầu tiên mà kẻ có duyên ấy là người quán về Pháp Không nên thấy được Pháp Thân ta trước.
Thánh tích nầy rất linh thiêng và được lưu truyền như thế. Phía đông nam của Bảo Tháp có một ao rồng được làm nên để bảo vệ thánh tích, nhằm ngăn chận những ai khinh phạm. Thời gian năm tháng tự tàn hoại. Không ai có thể phá được. Từ đây đi về phía đông nam ít hơn 200 dặm đến nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja).
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển bốn