Đại Đường Tây Vức Ký (kỳ 19)

T

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
                                                                             Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 19)
QUYỂN THỨ CHÍN
(1 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng TrìSa Môn Biện Cơ soạn

Nước Ma Kiệt Đà – Phần hai

 

Phía đông cây Bồ Đề qua sông Ni Liên vào trong rừng lớn có một Bảo Tháp. Phía bắc Bảo Tháp có một cái hồ, nơi đây một con voi con chờ con voi mẹ. Ngày xưa, khi đức Như Lai còn tu khổ hạnh, hai con voi từ núi phía bắc đến ở hồ nầy. Trong khi con voi mẹ thì mù tìm nước để uống, vì hiếu dưỡng cho nên con voi con đã đến đây gặp một người bị lạc trong rừng, ông ta đang lo sợ khóc lóc khổ sở. Thấy và nghe như vậy, con voi con thương cảm dẫn đường đưa ông ta trở về lại chỗ cũ. Người nầy sau khi về thưa với Vua rằng:

– Hạ thần có gặp một con voi con trong rừng là một con voi quý có thể bắt được

Nghe như vậy, vua cùng binh lính vào rừng để săn voi. Người nầy đi trước dẫn đường chỉ voi cho Vua. Tức thời nó quỳ hai chân xuống, nhà vua tuy kinh ngạc điều kỳ lạ, nhưng cho bắt voi con đem về. Khi voi về đó, không chịu ăn cỏ, không chịu uống nước. Người nài thấy vậy thưa Vua, Vua liền đến hỏi. Con voi con trả lời:

– Mẹ tôi bị mù già yếu đói khát, mà tôi nay trong sự nguy nàn nầy nào có thể ăn ngon được. Vua cảm động liền cho thả đi. Phía bên bảo tháp nầy có dựng một trụ đá. Đây là nơi ngày xưa Phật Ca Diếp đã ngồi và ở phía nầy có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành cùng ngồi thiền.

Phía đông nơi bốn vị Phật ngồi thiền qua chưa hết khỏi sông, đến rừng lớn nơi đó có một trụ đá. Đây là nơi mà ngoại đạo nhập định và phát ra lời thề ác. Ngày xưa, ông Uất Đầu Lam Phất ý chí như mây khói, thân trụ đám cỏ và ẩn dật trong rừng nầy, chứng được ngũ thông đệ nhứt định, làm cho Vua nước Ma Kiệt Đà rất tôn kính và cũng thỉnh vào cung dùng ngọ mỗi ngày. Ông Uất Đầu Lam Phất đến đi qua lại trong hư không cho nên Vua nước Ma Kiệt Đà rất là ngưỡng vọng và tiếp đón đến hoàng cung. Khi vua ra đi ủy thác lại cho ông được phép ra vào trong cung không cần mệnh lệnh.

Có một thiếu nữ hiền lành, lãnh nhiệm vụ vua giao để đón tiếp. Vua nước Ma Kiệt Đà triệu đến và nói rằng:

– Nay ta phải đi xa nên uỷ thác cho ngươi, ngươi đừng quên lo cho tròn công việc, khi ông Tiên Uất Đầu Lam tới phải tôn kính giống như khi đến dùng cơm mà ta cung phụng vậy.

Liền ra lệnh xong lại đi tuần du. Thiếu nữ thừa Thánh chỉ mà làm theo như thế.

Khi đại tiên đến thì mời ngồi. Uất Đầu Lam Phất đụng vào thân người nữ, tâm dục ô nhiễm khởi lên, bị mất thần thông. Ăn cơm xong rồi, nói lời từ tạ nhưng không bay lên hư không được. Trong tâm rất xấu hổ quỳ xuống nói với người nữ rằng:

– Ta đã tu đạo vào thiền định và được thần thông, qua lại trong hư không không có gì chướng ngạiMọi người đã nghe thấy lâu nay rồi. Dĩ nhiên trước đây tôi đạt được những điều như thế là muốn làm lợi lạc cho muôn loài há muốn giữ riêng việc lợi cho mình quên đi những kẻ khác. Tôi sẽ đi bộ ra cửa để mọi người thấy mà được phước.

Sau khi vương nữ nghe xong liền bảo cho mọi người xa gần biết. Lúc ấy sai người quét dọn đường sá có cả trăm ngàn vạn người ra bái vọng nghinh tiếp. Ông Uất Đầu Lam Phất đi bộ từ vương cung đến nơi rừng ông ta ngồi nhập định, tâm rơi vào ngoại cảnh. Trong rừng quạ chim kêu vang trời. Dưới hồ gần bên, cá rùa lên tiếng. Tâm ông tán loạn mất thần thông dẹp thiền định, sanh tâm sân hận và phát lời thề ác.

– Ta sẽ làm con chồn dữ, nhưng thân có cánh như chim, bắt hết các loài khác. Thân to ba ngàn dặm. Hai cánh mỗi bên rộng một ngàn năm trăm dặm. Khi vào rừng thì bắt hết tất cả các loài trong rừng. Lặn vào nước bắt hết các loài ở dưới nước.

Thề xong tâm sân hận giảm xuống mà chuyên cần cầu để trở lại định cũ, chẳng bao lâu sau mệnh chung sanh lên cõi trời thứ nhất thọ tám vạn kiếp và đức Như Lai cho biết rằng khi thọ mạng ở thiên giới hết, quả báo đời xưa với lời thề cũ, làm cho thân xấu và lưu chuyển vào trong ác đạo, chưa biết bao giờ ra khỏi.

Phía đông sông Mạt Ha vào trong rừng lớn đi hơn 100 dặm đến động núi Thất Phát Đa (Kê Túc Sơn) cũng còn gọi là núi Lầu Lô Phát Đa. Núi cao nhọn nguy hiểm và có những động sâu. Triền núi có cỏ cây cùng hang đá. Trên đảnh sầm uất cây cỏ và đá. Bên trên có ba đỉnh liền nhau tiếp giáp với trời cao, thỉnh thoảng mây phủ. Sau nầy tôn giả Đại Ca Diếp ở trong nầy mà tịch diệt chả nói lời nào cho nên gọi là Tôn Túc. Ngài Ma Ha Ca Diếp là đệ tử của đức Phật chứng được lục thần thông và tám giải thoátLúc ấy biết Như Lai hóa duyên đã mãn, sắp vào Niết Bàn, Ngài bảo với ngài Ca Diếp rằng:

– Ta đã nhiều kiếp siêng tu khổ hạnh vì các chúng sanh mà cầu Vô Thượng PhápSở nguyện ngày xưa ấy bây giờ đã hoàn mãn, bây giờ muốn vào đại Niết Bàn và các Chánh Pháp Tạng phó chúc cho ngươi giữ gìn truyền rộng đừng cho suy giảmDi mẫu thì hiến Cà Sa bằng chỉ vàng chờ ngày đức Di Lặc thành Phật đến mà trao lại. Cùng với những pháp tu hành của ta đã dạy. Nếu có Tỳ KheoTỳ Kheo NiƯu Bà TắcƯu Bà Di, tất cả đã được tế độ làm cho lìa khỏi sự lưu chuyển.

Ngài Ca Diếp y giáo thừa nhận Chánh Pháp, sau khi kiết tập xong đến năm thứ 20, ngài thấy cuộc đời vô thường cho nên đã nhập diệt, bèn đến Kê túc sơn, bóng núi che lên trên.

Hang đá có đường đi đến phía đỉnh của núi Tây Nam. Trên đỉnh, rất nguy hiểm trải qua nhiều khúc khuỷu có thể làm hại người được. Khi vào trong núi rồi, lúc trở ra đường đi khúc chiết khó thông. Đến phía đỉnh núi bên đông bắc thì ra khỏi. Khi vào trong ba đỉnh núi thì thấy Ca Sa của Phật ở đó. Vì nguyện lực nầy mà ba đỉnh kia cao vút, cho nên bây giờ ba đỉnh núi ấy rất linh thiêng. Trong tương lai khi đức Từ Thị ra đời sau ba hội thuyết pháp có không biết bao nhiêu là chúng sanh kiêu mạn muốn lên núi nầy, đến thăm Ngài Ca Diếp.

Đức Di Lặc khảy móng tay đỉnh núi tự mở và những chúng sanh thấy được ngài Ca Diếp liền tăng thêm kiêu mạn. Lúc đó ngài Đại Ca Diếp trao y và từ tạ lễ bái rồi thân bay lên hư không thị hiện các thần biến tự hóa lửa tam muội đốt thân và nhập diệt. Thời những chúng sanh ấy khi chiêm ngưỡng tâm kiêu mạn mất đi. Nhân đây chiêu mộ tất cả được chứng quả. Cho nên bây giờ trên đỉnh núi có xây một Bảo Tháp. Những đêm thanh vắng từ xa người ta thấy được ánh sáng từ Bảo Tháp phát ra, nhưng khi lên núi rồi không còn thấy nữa.

Phía đông bắc núi Kê Túc đi hơn 100 dặm, đến núi Phật Đà Phạt Na. Đỉnh núi rất cao và nguy hiểm. Trên đó có một phòng bằng đá có ghi lại dấu chân của Phật. Bên cạnh đó có một tảng đá. Đế ThíchPhạm VươngMa Ngưu Đầu dùng hương thom của gỗ chiên đàn cúng dường Như Lai. Ở trên tảng đá nầy còn phảng phất mùi hương. Năm trăm A La Hán đã hiển linh nơi đây. Người có duyên được gặp hoặc được thấy. Có lúc là hình Sa Di đi vào trong làng để khất thực. Đây là di tích rất linh thiêng khó có thể tường thuật hết.

Phía giữa núi Phật Đà Phạt Na đi qua hướng đông hơn 30 dặm đi đến nơi Tiết Sắc, thì biết được là Rừng Trúc (Trúc Lâm), vườn nầy cũng đã biến thể từ hang núi mà thành. Đầu tiên các vị Bà La Môn nghe Đức Phật Thích Ca thân dài 6 trượng cho nên thường hoài nghi chưa tin tưởng, bèn lấy sáu cây trúc để đo thân Phật, nhưng khi đó mới biết còn hơn 6 trượng nữa. Lúc đó chiều cao cứ cao dần không cùng tận, họ bỏ trúc mà đi, rồi bốn phía trồng trúc, chính giữa có một Đại Tháp do Vua A Dục dựng nên.

Ngày xưa đức Như Lai ở đây bảy ngày đã vì chư Thiên và loài người hiện đại thần thông thuyết các Diệu Pháp. Ở giữa rừng Trúc gần đó có một người thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi tên là Ưu Ba Tát Già Phiệt Gia Tê Na (Thắng Quân). Có ý muốn dọ thăm tình huống của Sơn Lâm. Từ thưở nhỏ đã ở riêng biệt nên tâm thật trong sángnghiên cứu Nội ngọai điển vô cùng thâm u và hiểu rõ những luận cứ cao siêu trong sáng mô phạm. Các vị Sa MônBà La MônNgoại ĐạoQuốc Vương, Đại Thần, Bậc Trưởng Giả, những người giàu có thường biết đến sự thông suốt đó lấy làm phục và luôn luôn thỉnh cầu để được lợi ích.

Những người đến thọ học hơn sáu phần mười trong thiên hạ. Đến năm gần 70 tuổi, sức yếu chẳng đọc được nên đã phế bỏ tất cả duy chỉ học tập kinh Phật mà thôi. Sách tấn thân tâm, ngày đêm chẳng nghĩ. Pháp của Dị Giáo giống như mùi bùn. Sau đó dựng nên một Bảo Tháp nhỏ cao 5.6 thước và những bản kinh văn được để vào bên trong, gọi là Tháp Xá Lợi. Những năm sau nầy, người ta xây dựng nên Đại Bảo Tháp. Mọi người đều đến đây để tu phước cúng dường.

Đây là sự nghiệp của Vua Thắng Quân. Ở phía trước cửa dùng để nói Diệu Pháp dụ những người học trò đến để làm tháp, làm hình thức để tôn sùng Phước Đức. Ban đêm lại đi kinh hành lễ bái đọc tụng ngồi thiền tư duy ăn uống chẳng cần ngày đêm không mõi mệt. Đến năm 100 tuổi ý chí vẫn chưa suy. Ròng rã ba mươi năm trường làm bảy ức Bảo Tháp thờ Pháp Xá Lợi. Đủ một ức thì xây một Bảo Tháp lớn rồi để Pháp Xá Lợi vào trong đó để cúng dường. Thỉnh chư tăng đến làm Pháp Hội xưng dương tán thánLúc ấy ánh sáng chiếu rọi khác thường. Từ đó về sau, thường hay phóng đại quang minh.

Phía tây nam của rừng trúc, đi hơn 10 dặm ở phía núi cao có hai suối nước nóng. Nước rất là nóng. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã biến nước nầy chảy ra rồi tắm ở đó, cho đến bây giờ vẫn còn. Nước trong vắt chảy liên tục không hết. Người người xa gần đều đến đây để tắm gội. Trầm mình ở dưới bao lâu chẳng sao cả. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi mà Như Lai thường đi kinh hành.

Bên phía đông nam của rừng trúc cách 6.7 dặm đến một đỉnh núi lớn. Phía bên phải có một Bảo Tháp. Đây là nơi ngày xưa đức Như Lai đã vì trời người đến đây thuyết pháp mỗi ba tháng hai lần. Lúc ấy vua Tần Bà Sa La cũng muốn đến nghe Pháp, nên đã băng núi xẻ đá mà đến. Nơi nầy rộng hơn 20 bộ chiều dài 3.4 dặm. Phía bắc của núi cao hơn 3.4 dặm là núi Cô Sơn. Nơi đây ngày xưa, có một vị tiên nhơn học rộng ẩn cư và tại nơi nầy dấu tích phòng ốc vẫn còn tồn tại.

Những người học trò vẫn còn lui tới nơi đó. Phía đông bắc của núi Cô Sơn hơn 4.5 dặm, có một núi Cô Sơn nhỏ, tường phòng bằng đá rộng rãi có thể ngồi hơn cả ngàn người. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai thuyết pháp ba tháng. Trên phòng bằng đá có tảng đá lớn là nơi mà Đế ThíchPhạm VươngMa Ngưu Đầu lấy gỗ chiên đàn cúng dường trang sức thân Phật và trên đá vẫn còn phảng phất mùi hương.

Phía tây nam của phòng bằng đá có một ngọn núi tròn. Ấn Độ ngày xưa gọi là cung của A Tố Lạc (A Tu La). Người có những việc cần đến đây để luyện chú thuật và lo cho vận mệnh đó thì tăng lữ có hơn 14 người. Đã nguyện cùng chí hướng vào trong núi tròn nầy. Đi hơn ba bốn chục dặm thì bỗng nhiên trời sáng. Lại thấy thành ấp nhà cửa tất cả đều bằng vàng bạc lưu ly. Những người nầy đến rồi lại có những thiếu nữ chờ ở phía cửa ra vào hoan hỷ nghinh tiếp để đón mừng người đến, rồi đưa dần vào bên trong. Cửa bên ngoài có hai cô tỳ nữ, mỗi tỳ nữ đều cầm một cái mâm bằng vàng, trên mâm ấy toàn những hương hoa để nghinh đón, vì những người ấy nói rằng:

– Xin hãy vào Hồ để tắm bằng hương hoa sau đó mới được vào trong. Nơi đó rất là đẹp có một người có chú thuật tiến đến nhanh trong khi mười ba người kia tắm gội. Khi vào trong hồ rồi thì quên hết tất cả. Họ ngồi như là mạ cấy xuống ruộng.

Đi khỏi nơi nầy đến phía bắc, có sông rộng hơn ba bốn dặm.

Phía bên phòng bằng đá lại có con đường cầu treo rộng hơn mười bộ dài bốn năm dặm. Ngày xưa Vua Tần Bà Sa La muốn đến thăm Phật tạm lấy đá bắt ngang qua suối, hoặc lấy những hòn đá trên núi làm thành những bậc thang để đi đến nơi Phật. Từ đây đi lên núi cao, hướng đông hơn 60 dặm đến Kỳ Xà Quật thuộc thành La Bổ Sa, (thành Vương Xá) nằm giữa nước Ma Kiệt Đà. Đây cũng là cố đô của quân vương đời trước.

Đa phần các bậc quân vương dùng hương thơm của cỏ Kiết tường cho nên trong thành có rất nhiều cỏ. Chung quanh bốn phía núi là làng mạc. Phía tây thông với đèo hẹp. Phía bắc có cửa vào núi. Phía đông tây dài và phía nam bắc hẹp chu vi độ 150 dặm. Nội thành còn dấu tích hơn 30 dặm. Cây Yết Ni Già thường có nhiều ở đây. Hoa và màu sắc của hoa là vàng kim, đến giữa mùa xuân nở cả một rừng hoa màu vàng.

Ngoài cửa cung thành phía bắc, lại có một Bảo Tháp nơi mà Đề Bà Đạt Đa cùng với A Xà Thế làm bạn, rồi thả voi say muốn hại Phật. Như Lai lấy tay chỉ, biến thành năm con Sư Tử, con voi say quỳ xuống phục mạng.

Phía đông bắc nơi voi say có một Bảo Tháp là nơi mà ngài Xá Lợi Phất nghe Tỳ Kheo A Thấp Ba Tỳ (Mã Thắng Assajit) thuyết pháp liền chứng quả. Đầu tiên khi ngài Xá Lợi Phất còn tại gia được tôn xưng là tài cao phong nhã, có nhiều học trò đến thọ giáo. Khi ấy ngài vào thành Vương Xá gặp ngài Mã Thắng Tỳ Kheo đang đi khất thực. Ngài Xá Lợi Phất đưa mắt nhìn ngài Mã Thắng bảo với môn nhân rằng:

– Ông nào kia sao trông đặc biệt quá. Nếu không phải là bậc chứng quả làm sao có được phong cách tịch tĩnh như vậy.

Khi nói như vậy thì đi tới một chút rồi dừng lại xem rồi tiến tớiLúc ấy Ngài Mã Thắng Tỳ Kheo đã chứng quả A La Hán rồi. Tâm được tự tại dung mạo đoan nghiêmđường đường oai nghi. Ngài Xá Lợi Phất thưa:

– Trưởng Lão là bậc quá an lạc. Thầy của ngài là ai? Ngài chứng pháp gì mà có được sự an vui như vậy.

Ngài Mã Thắng đáp rằng:

– Nhà ngươi không biết sao. Thái Tử con Vua Tịnh Phạn đã từ bỏ ngôi vị chuyển Luân Thánh Vương, có lòng từ bi thương cảm đến sáu đườngtu khổ hạnh sáu năm, chứng thành Chánh Giác, đầy đủ tất cả trí tuệ. Ngài là thầy của ta. Pháp thì chẳng có mà cũng chẳng phải không, thật là khó thực hành như quay tơ vậy. Chỉ có Phật với Phật mới có thể tường lãm. Những kẻ ngu muội làm sao hiểu rõ nghĩa lýVì vậy cho nên được xưng tụng tán dương là Giáo Pháp của chư Phật.

Khi ngài Xá Lợi Phất nghe như vậy liền chứng quả. Nơi chứng quả về phía bắc không xa mấy có một cái hầm rất sâu. Bên cạnh đó có xây dựng một Bảo Tháp. Đây là phòng của Lợi Cúc Đa (Thắng Mật) đào hầm lửa và tạo thức ăn độc để hại Phật. Thắng Mật là người tôn sùng Ngoại Đạo, nhiễm nặng tà kiến của các Phạm Chí nên nói rằng:

Sa Môn Cồ Đàm người được cả nước tôn kính, liền ra lệnh cho học trò đừng có tin tưởng nữa, bèn mời ông ta đến nhà để dùng cơm, rồi cho Nha Môn đào một cái hầm trong đó chất toàn là lửa, dùng cây mục bắt ngang qua. Tất cả những thức ăn trộn toàn là độc dược vào. Khi mà hầm lửa nổi lên. Nếu qua khỏi hầm lửa sẽ bị đồ độc. Đoạn Thắng Mật cho lệnh thiết soạn toàn là thức ăn độc.

Trong thành mọi người đều biết Thắng Mật khởi tâm ác độc muốn hại Thế TônMọi người đã mong rằng Phật đừng đến đó; nhưng Thế Tôn bảo rằng:

– Chẳng có gì để lo lắng cả. Thân thể của Như Lai không có vật nào có thể hại được. Cho nên ngài đã nhận lời thỉnh mà đến. Khi chân vừa đến cửa ngõ thì hầm lửa kia biến thành ao nước trong ngần và hoa sen toả ra mùi thơm ngát. Thắng Mật thấy như vậy liền lo lắng không nguôi, và cho môn đồ biết rằng:

– Không gặp lửa chắc chắn sẽ gặp độc.

Thế Tôn ăn xong rồi, liền thuyết Diệu PhápThắng Mật nghe xong cảm tạ rồi xin phép quy y.

Phía bên hầm lửa của Thắng Mật, từ núi đông bắc đi quanh có một Bảo Tháp. Đây là Pháp Đường của Bác Sĩ Phược Già (Kỳ Bà) nghe Phật thuyết pháp, kiến tạo nên, chung quanh rất là rộng rãi và trồng nhiều hoa quả. Bây giờ dấu tích vẫn còn nơi đó. Ngày xưa Như Lai nhiều lần dừng lại nơi đây và bên cạnh đó lại có nhà của ông Kỳ Bà. Nơi đó ngày xưa vẫn còn một cái giếng. Từ cung thành đi về phía đông bắc hơn 14 dặm rưỡi đến núi Kiết Phiêu Đa La Cự Thác (Kỳ Xà Quật) có đỉnh núi Thứu, nằm ở phía bắc, có hình dáng rất đặc thù giống như mỏ con chim Thứu.

Nơi đỉnh cao đó thoáng mát, khí hậu dễ chịu. Trong 50 năm hoằng pháp trong cuộc đời, gần như hầu hết Đức Như Lai ở tại đây. Vua Tần Bà Sa La muốn nghe Pháp đã cùng với mọi ngườiphát tâm từ chân núi đi lên đến đỉnh núi, dọc đường những hang động đã biến đá ấy làm thang cấp rộng hơn 10 bộ, dài hơn 5.6 dặm. Giữa đường có hai Bảo Tháp nhỏ. Một nơi là nơi xuống Xa Giá để Vua từ đây bắt đầu đi bộ lên.
Ky19
Một nơi khác là đuổi hết đoàn tùy tùng chỉ một mình đi lên. Đỉnh núi phía đông tây dài, nam bắc hẹp. Tiếp giáp phía đông tây có một tinh xá bằng gạch, rất cao thoáng và phòng nào cũng có lan can hướng ra phía đông. Đức Như Lai phần nhiều thuyết pháp ở nơi đây. Nên ngày nay có dựng một tượng Phật thuyết pháp tại đó, cao bằng thân của Như LaiTịnh xá phía đông có một tảng đá dài là nơi đức Như Lai kinh hành qua lại. Bên cạnh đó lại có một tảng đá lớn. Cao một trượng tư. Chu vi hơn 30 bộ là nơi Đề Bà Đạt Đa xô đá hại Phật. Dưới phía nam nầy có một Bảo Tháp. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã giảng kinh Pháp HoaTinh xá phía nam có một phòng bằng đá. Nơi đó Như Lai ngày xưa đã nhập định.

Phía tây bắc của phòng bằng đá lại có một phòng đá khác. Phía trước có một tảng đá lớn, là nơi A Nan bị Ma dọa. Tôn Giả nhập định nơi nầy và Ma Vương hóa thành con chim Thứu nhằm tháng không có trăng ở trên tảng đá lớn, kêu tiếng con chim Thứu mà nhác Tôn GiảTôn Giả lúc bấy giờ rất là kinh hãi không yên. Như Lai xem thấy an ủi và đưa tay qua khỏi tường đá chạm vào đầu A Nan. Rồi lấy lòng từ bi mà nói rằng:

– Đó là do ma biến hóa đấy đừng sợ hãi gì cả.

Ngài A Nan nghe lời an ủi như thế thân tâm an lạc cho nên trên miếng đá có dấu tích của chim ấy và có một lỗ thông qua.Thời gian trải qua lâu rồi nhưng bây giờ vẫn còn tồn tại.

Phía bên Tịnh xá có rất nhiều phòng bằng đá mà ngài Xá Lợi Phất và các bậc A La Hán đã ở nơi nầy nhập định. Trước phòng đá của ngài Xá Lợi Phất có một cái giếng lớn. Bây giờ nước đã khô nhưng giếng vẫn còn. Phía đông bắc của Tịnh Xá có một tảng đá ướt. Trên đó có một tảng đá nữa. Đó là nơi phơi áo Cà Sa của Như Lai và hình ảnh của chiếc y ấy vẫn còn tồn tại in lên đó. Bên cạnh tảng đá có dấu tích bàn chân của Phật và những đường chỉ bánh xe dưới bàn chân vẫn còn ghi đậm nơi đây.

Phía bắc đỉnh núi có một Bảo Tháp. Đây là nơi đức Như Lai vọng hướng về thành Ma Kiệt Đà, nơi đây đức Phật đã thuyết pháp bảy ngày. Phía cửa bắc của thành có núi Tỳ Bổ La. Nghe qua truyền thuyết thì biết rằng:

– Phía tây nam của núi nầy, ngày xưa có năm trăm suối nước nóng mà bây giờ chỉ còn lại hơn 10 cái do khí hậu lúc nóng lúc lạnh, không có nóng lắm. Những suối nước nóng phát xuất từ phía nam núi Tuyết của hồ Vô Nhiệt Não, chảy đến nơi nầy. Nước rất xanh và vị rất ngọt giống như trên nguồn vậy. Chảy qua hơn 500 nhánh của những tầng địa ngục tiểu nhiệt. Lửa đó đốt làm cho nước nóng. Nước từ trong miệng đá chảy ra tạo thành những hình Sư Tử hoặc là đầu rồng, hoặc tạo thành những máng nước dài. Phía dưới biến thành đá và thành ao. Người ở những nơi khác đến đây để tắm. Những kẻ bị bịnh tắm xong liền khỏi. Hai bên tả hữu của suối nước nóng đều có Bảo Tháp và Tinh Xá. Nơi đây cũng còn dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Nơi đây là nơi mà sơn thủy giao nhau. Cho nên người ở đây phát sinh trí tuệ, đất đai tạo nên sự an ổn để che chở mọi người.

Phía tây của suối nước nóng, có một phòng đá gọi là Bi Bát La. Nơi mà Thế Tôn ngày xưa đã ở lại trong nầy và nằm sâu trong động là nơi ở của các vị A La Hán. Đa phần những vị Tỳ kheo thiền định ở đây bị những hình ảnh kinh dị của rắn hoặc Sư Tử hiện ra làm cho tâm họ sợ hãi phát cuồng khi thấy như vậy. Cho nên đây cũng là nơi các thánh hiện ra làm gió thổi để giúp họ xua tan những tai nạn kia. Những Tỳ Kheo giới hạnh tinh nghiêm muốn tâm được thanh tịnh liền dùng phòng nầy để tu tập thiền định. Nhưng cũng có người bảo đừng nên đến đó. Vì nơi đó có những tai nạn kinh dị làm cho không ít kẻ bị hại, khó có thể tu định mà còn có thể mang họa vào thân. Hãy lo trước vẫn hơn là hối hận về sau.

Vị Tỳ kheo ấy đáp rằng:

– Chẳng sao cả tôi chỉ có chí nguyện cầu Phật quả sẽ hàng phục được thiên ma. Nếu mà hại được, lấy gì bảo chứng.

Rồi liền chống gậy đi đến phòng đó. Sau đó lập đàn tràng trì Chú. Một tuần sau có một người đàn bà xuất hiện bảo Tỳ Kheo rằng:

– Tôn Giả mặc áo hoại sắc giữ giới làm chỗ nương tựa của mọi loài, tu định huệ hướng dẫn sinh linh trở vào đường thiện mà bây giờ ở nơi đây lại sợ hãi ta như vậy. Lời dạy của Như Lai há là như vậy sao?

Tỳ Kheo đáp:

– Tôi là người giữ tịnh giới tôn trọng Thánh Giáo muốn vào trong núi sâu để xa lìa những tạp nhiễm. Thấy đây là nơi an tịnh có thể ở được.

Đáp rằng:

– Tôn Giả trì Chú nghe phát ra lửa từ ngoài bay vào, thiêu phòng tôi ở, làm cho tôi khổ sở mong rằng lấy lòng từ bi đừng tụng chú nữa.

Tỳ Kheo đáp rằng tụng chú là để hộ thân chứ đâu có muốn hại ai. Đến đây chỉ muốn ngồi thiền để chứng Thánh Quả và cứu khổ hàm linh. Thấy điều kinh dị không muốn thân mạng bị hại. Có làm gì hại cô đâu mà nói như vậy.

Đáp rằng:

– Tội chướng quá dày, trí huệ thô thiển, cho nên từ nay về sau chỉ giữ phận ở đây và mong rằng tôn giả đừng tụng thần chú nữa.

Kể từ đó vị Tỳ kheo kia, khi Thiền định được an tịnh không bị hại nữa.

Trên núi Tỳ Bổ La, có một Bảo Thápngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp nơi đây. Còn bây giờ thì ngoại đạo lõa thể đang ở nơi nầy. Họ tu tập khổ hạnh ngày đêm siêng năng, từ sáng đến tối tinh chuyên quán sát. Cửa phía bắc của thành nầy đi về phía đông hơn hai ba dặm gặp một phòng đá lớn là nơi mà ngày xưa Đề Bà Đạt Đa đã nhập định.

Phía đông của phòng đá nầy không xa mấy, có một tảng đá trên đó còn lưu lại vết máu. Bên cạnh Bảo Tháp đó là nơi thiền định của vị Tỳ kheo, vị nầy tự hại mình để chứng Thánh Quả. Chuyện ngày xưa có kể lại rằng:

Có vị Tỳ kheo chuyên cần thân tâm tu tập thiền định, ngày tháng trôi qua nhưng chẳng chứng Thánh quả, có ý thối lui liền than rằng:

– Nếu quả vị A La Hán mà không chứng được thì để cho thân dơ nhớp nầy còn tồn tại có hữu ích gì, lấy đá tự đập vào đầu. Lúc ấy liền chứng A La Hán. Bay lên hư không thị hiện thần biến, hóa lửa để thiêu thân vào nơi tịch diệt. Đây là câu chuyện ly kỳ vẫn còn ghi lại.

Phía đông nơi Tỳ kheo chứng quả, có một tảng đá. Trên tảng đá có một Bảo Tháp. Đây là nơi tập định của Tỳ Kheo muốn chứng Thánh QuảCâu chuyện được kể rằng ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một vị Tỳ Kheongồi thiền lâu năm trong núi rừng và muốn chứng quả thiền định. Rất siêng năng cần mẫn lâu năm, nhưng chưa chứng được đạo quả. Ngày đêm luôn luôn nhớ nghĩ chẳng quên thiền địnhĐức Phật biết rằng người nầy căn cơ đã đến cho nên ngài đã từ vườn Trúc Lâm đến dưới chân núi nầy khảy móng tay để triệu hồi vị Tỳ Kheo ấy. Vị Tỳ Kheo liền thấy Thánh Chúng thân ý hoan hỷ cúi xuống đảnh lễ.Thân tâm tự nhiên thanh tịnh kính vâng lời Phật đến tại nơi đây liền chứng Thánh QuảĐức Thế Tôn bảo rằng:

– Hãy biết đã đến lúc rồi.

Vị ấy liền bay lên hư không thị hiện thần biến. Dùng hình ảnh ấy để tạo nên tín tâm, cho nên được ghi lại như vậy.

Cửa phía bắc của thành đi hơn một dặm, đến vườn trúc Ca Lan Đà, bây giờ vẫn còn tịnh xá, phòng ốc được xây bằng gạch và đá lan can hướng về hướng đông. Ngày xưa đức Như Lai còn tại thế đa phần ngài ở nơi nầy thuyết pháp để giáo hóa chúng sanh. Bây giờ còn một tượng giống như thân hình của Như Lai.

Sơ khởi ở tại thành nầy, có một vị Trưởng Giả tên là Ca Lan Đà (Caranda) Lúc ấy là một bậc hào phú của rừng Trúc đã cúng cho ngọai đạo, nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp liền phát tín tâm, đòi lại vườn Trúc xưa nơi họ cư ngụ bảo rằng:

– Bây giờ đấng Thiên Nhơn Sư không có chỗ ở.

Cho nên quỷ thần cảm động sự thành tâm liền bảo với ngoại đạo rằng:

– Trưởng Giả Ca Lan Đà sẽ xây dựng tịnh xá nơi vườn Trúc nầy, các ngươi nên đi xa đi để khỏi bị nguy hiểm. Lúc ấy ngoại đạo phẫn nộ sân si rồi đi.

Trưởng giả kiến lập tinh xá nơi nầy. Sự việc xong xuôi đích thân đến thỉnh PhậtĐức Như Lai lúc bấy giờ đã nhận sự cúng dường nầy.

Phía đông của rừng Trúc Ca Lan Đa có một Bảo Tháp, nơi đây vua A Xà Thế làm con đường đi ra. Sau khi đức Như Lai nhập Niết Bàn, các vua chúa cùng phân chia Xá LợiA Xà Thế cũng được và mang về đây rồi xây Tháp cung kính để cúng dường. Nơi đây cũng là nơi Vua A Dục phát sinh tín tâm cho mở Xá Lợi ra kiến tạo Bảo Tháp khác để thờ. Nơi đây cũng thường phóng ra ánh sáng vi diệu.

Bảo Tháp của Vua A Xà Thế có thờ nửa thân Xá Lợi của Tôn Giả A NanNgày xưa khi Tôn Giả sắp tịch diệt đi đến nước Ma Kiệt Đà hướng đến thành Tỳ Xá Ly. Cả hai nước đều muốn dùng binh để giao tranh với nhauTôn giả đã ai mẫn và thương cảm nên đã phân thân. Vua nước Ma Kiệt Đà đem Xá Lợi về để cúng dường. Tức ở nơi đây kiến tạo nên Bảo Tháp để tu Phước. Bên cạnh đó là nơi kinh hành của đức Như LaiTiếp theo chẳng bao xa lại có một Bảo Tháp. Đây chính là nơi ở của Ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên.


    Leave a comment
    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    Ý dẫn đầu các pháp,
    Ý làm chủ, ý tạo;
    Nếu với ý thanh tịnh,
    Nói lên hay hành động,
    An lạc bước theo sau,
    Như bóng, không rời hình.

    Phẩm Song Yếu

    Tháng 07 năm 2024
    27
    Giờ hoàng đạo: Tý (23-1), Sửu (1-3), Mão (5-7), Ngọ (11-13), Thân (15-17), Dậu (17-19)
    Thứ 7
    Ngày Nhâm Thìn
    Tháng Tân Mùi
    Năm Giáp Thìn
    Lịch âm
    22
    Tháng 06
    Kiên Giang