ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 14)
QUYỂN THỨ SÁU
(4 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
Cửa phía đông của thành và phía bên tay trái có một Bảo Tháp. Nơi đây ngày xưa tất cả các nghi lễ đã được luyện tập học hỏi. Bên ngoài cửa có một đền thờ Tự Tại Thiên, trong đền thờ có tượng Thiên Vương uy nghi đĩnh đạc, mà nơi đây Thái Tử đã ở lại đền nầy. Vua Tịnh Phạn đã cho người đến nước Thử Phạt Ni nghinh đón Thái Tử về. Sau đó đến đền khác, Vua nói đền nầy rất linh. Các đứa bé dòng họ Thích đều đem đến đây cầu nguyện gia hộ, có hiệu quả, cho nên đem Thái Tử đến đây để cầu nguyện. Lúc bấy giờ truyền mẫu hậu vào đền, tượng đá liền đứng dậy để nghinh đón Thái Tử. Thái Tử đi rồi, tượng mới ngồi xuống.
Cửa phía nam của thành ở phía bên trái của đường đi có một Bảo Tháp, đây là nơi mà Thái Tử và những vương tử họ Thích thi bắn cung, thi đấu với nhau. Từ phía đông nam hơn ba mươi dặm, có một Bảo Tháp nhỏ, đây là nơi mà có dòng suối chảy trong như mặt kính. Nơi đây Thái Tử cùng những vương tử dòng họ Thích đã thi bắn cung tên và biểu diễn các nghệ thuật khác. Tiếp theo có một cái ao nước rất trong, tương truyền rằng đây là dòng suối của cung tên. Phàm người nào có bệnh uống nước nầy vào thì khỏi.
Người ở xa đôi lúc mang cả bồn về tùy theo sự bịnh khổ mà những linh thần hộ vệ để tật bệnh được tiêu trừ. Phía đông bắc của suối cung tên, cách hơn 89 dặm, đến rừng Thử Phạt Ni. Nơi đây là ao tắm của dòng họ Thích, nước trong như gương, hoa thơm đầy dẫy. Từ đây qua phía bắc 24 dặm rưỡi có một cây Vô ưu bây giờ đã khô héo hết rồi. Đây là nơi linh thiêng đản sanh của Bồ Tát. Bồ Tát sanh ra vào lúc nửa đêm vào ngày mồng tám tháng Phệ Xá Khư (Vesakha) tức nhằm ngày mồng tám tháng tư, mà theo Thượng Tọa Bộ cho rằng nhằm giữa đêm ngày 15 tháng Phệ Xá Khư, tức ngày 15 tháng 4.
Tiếp đến ở phía đông có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Nơi đây có hai con rồng phun nước tắm Thái Tử. Sau khi Bồ Tát sanh liền tự đi không cần nâng đỡ ngài đi bốn hướng, mỗi hướng bảy bước, và tự nói rằng: “THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ DUY NGÃ ĐỘC TÔN. ĐÂY LÀ LẦN SANH CUỐI CÙNG CỦA TA” Tự nhiên dưới chân mọc lên những đóa hoa lớn, rồi hai con rồng bỗng nhiên xuất hiện từ hư không cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho Thái Tử.
Bên Bảo Tháp tắm rửa cho Thái Tử về hướng đông có hai dòng suối trong veo. Bên cạnh đó có hai Bảo Tháp là nơi mà hai con rồng từ dưới đất trồi lên. Bồ Tát sanh rồi mà những người hoàng tộc chưa kịp mang nước đến để tắm thì trước mặt hoàng hậu đã phát sinh ra hai dòng suối, một ấm một lạnh để tắm rửa. Phía Nam của Bảo Tháp là nơi mà Thiên Đế Thích đã đón tiếp Bồ Tát khi Bồ Tát mới đản sanh. Thiên Đế Thích đã dùng áo mềm mại của trời quỳ xuống dâng cho Bồ Tát. Tiếp theo đó có bốn Bảo Tháp, đây là nơi Tứ Thiên Vương bồng ẵm Bồ Tát. Bồ Tát từ hông phải mà sanh ra.
Tứ Đại Thiên Vương mặc áo màu vàng, ẵm Bồ Tát để trên bàn vàng, rồi đến trước hoàng hậu thưa rằng phu nhân đã sanh một quý tử phước đức, xin hoan hỷ chúc mừng. Chư thiên còn hỷ lạc huống gì người trần thế.
Cách Bảo Tháp của Tứ Thiên Vương bồng Thái Tử không xa mấy, có một thạch trụ lớn, trên đầu có chạm hình con ngựa do Vua A Dục kiến tạo nên. Sau nầy bị con ác long nổi sấm sét làm cho trụ đá bị gãy ngang ở giữa và rơi xuống đất. Bên cạnh đó có một con sông nhỏ chảy về hướng đông nam. Phong tục địa phương gọi nơi đây là sông Dầu, là nơi mà hoàng hậu Ma Gia sanh xong, chư Thiên hóa ra ao nầy để tắm gội cho sạch sẽ. Muốn làm cho phu nhân lấy nước nầy trừ khử những gió bụi và sau đó biến thành nước chảy qua dòng sông nầy. Từ phía đông đi tiếp qua khu rừng rậm, đến nước Lam Ma.
Nước Lam Ma bây giờ đã hoang phế không còn dấu vết gì, thành ấp đã đổ nát xiêu vẹo, người dân thưa thớt. Thành xưa ở phía đông nam có một Bảo Tháp lợp ngói cao gần 100 mét. Ngày xưa sau khi đức Như Lai nhập diệt, Vua của nước nầy đến phân chia Xá Lợi mang về nước của mình rồi ra sức tôn tạo kiến thiết nên. Đây là nơi rất linh thiêng, có ánh sáng phát ra từ Tháp. Bên cạnh Bảo Tháp có một ao nước trong. Mỗi lần con rồng ra đi nó biến thành con rắn. Phía bên phải cũng có một Bảo Tháp.
Có các con voi dùng vòi để rải hoa. Để cho các thế lực khác không thể xen vào, Vua Asoka đã kiến tạo nên Bảo Tháp ấy. Bảy nước đã xây dựng xong rồi bắt đầu đến nước nầy muốn làm Bảo Tháp khác, nhưng con rồng ở hồ nầy giận dữ khi thấy được và muốn cướp đoạt nên biến thành một Bà La Môn cúi đầu trước con voi mà nói: Đại Vương có tấm thịnh tình hoằng dương Phật Pháp là một ruộng phước rất lớn, xin thỉnh đại vương giáng lâm nơi tệ xá của tôi. Vua hỏi:
– Nhà của ngươi cách đây xa gần?
Bà La Môn đáp:
– Tôi là vua rồng của hồ nầy, thấy đại vương muốn xây dựng nơi phước đức nên đến thỉnh mời. Vua thọ nhận sự thỉnh mời mà đi vào Long cung, ngồi chờ một hồi lâu rồng tiến đến nói:
– Tuy tôi thọ ác nghiệp nên làm thân rồng nầy. Nay muốn cúng dường xá lợi để được tiêu tội, nên mời vua đến đây để mà đảnh lễ.
Vua A Dục nghe thấy xong liền vui vẻ mà nói:
– Mọi sự cúng dường không phải chỉ của người trong nhân gian.
Rồng đáp:
– Nếu vậy thì nguyện không bao giờ phá hoại.
Vua A Dục tự nghĩ chính mình làm không cần người khác, lui về mà chẳng khai phát và sau khi đi khỏi ao rồi, chỗ nầy vẫn còn nguyên như cũ.
Bên cạnh Bảo Tháp chẳng bao xa, có một Già Lam, tăng chúng an hòa thanh tịnh trang nghiêm mà hầu như chỉ có Sa Di là đảm nhận việc chúng. Khách tăng từ xa đến lễ bái gặp những vị nầy, chắc chắn được ở lại ba ngày và tứ sự cúng dường. Nghe người xưa thuật lại rằng:
Ngày xưa ở đây có một vị Tỳ Kheo đã gọi mời bạn của mình đến. Khi từ xa đến lễ Tháp thấy những con voi bao bọc chung quanh và tới lui nơi đó, hoặc chúng lấy ngà xới cỏ, lấy vòi phun nước, chúng mang những hoa lạ đến cúng dường. Lúc thấy chúng như vậy, cho nên mới bi thán cảm động và có một vị Tỳ kheo liền xả giới cụ túc nguyện ở lại đó để cúng dường, rồi cùng chúng nói rằng:
Ta tuy có nhiều phước nhưng lạm ở trong tăng. Năm tháng qua mau mà hành nghiệp chẳng có gì. Trong tháp nầy có thờ Xá Lợi. Do đức độ của Phật mà dung thông đến loài voi, cho nên ta mang thân đến nơi nầy để cùng chịu cực khổ với các ngươi. Nói xong liền được thêm một cái răng nên rất sung sướng.
Loài voi bảo rằng:
– Thật là đáng quý hóa thay. Chúng tôi không có tâm xấu để làm việc nầy, mà do sự tự ái không thể thắng được nghiệp. Cũng như đã xa bầy mà làm nên lời nguyện. Riêng ở một mình cho đến cuối đời để lập chí. Đây giống như cỏ tranh để làm nhà, dẫn nước mưa thành hồ. Hái hoa trải ra, quét dọn sạch sẽ. Cả thời gian như thế mà tâm không giải đãi. Các Vua nước khác nghe việc như trên, bèn bỏ của báu ra để kiến tạo Già Lam, để mà khuyến khích nhiệm vụ của một vị Tăng.
Từ đó đến nay không lãng xao công việc cho nên gọi là Sa Di Tổng Tri Tăng Sự. Phía đông của chùa Sa Di là một rừng lớn, đi hơn một trăm dặm thì đến một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nơi Thái Tử du thành cởi bỏ hoàng bào, chuỗi anh lạc giao lại cho phụ thân. Thái Tử đi ra khỏi thành từ lúc nửa đêm cho đến sáng thì đến đây. Nhờ túc duyên đời trước mà nay được thân người nên nói rằng:
– Ta cởi Long Bào xa lìa sự ràng buộc là nơi sang trọng cuối cùng của vương tử dòng họ Thích, rồi đưa lên trên không trung những bảo vật nầy nói:
Ngươi nên mang những thứ quý giá nầy về cho phụ vương ta. Đừng trông chờ ta nữa vì ta đã xa lìa rồi. Ta muốn đọan bỏ sự vô thường và cắt trừ các lậu hoặc. Xa Nặc đáp:
– Kẻ hạ thần nầy phải trở về xa giá không sao? Thái Tử liền uỷ dụ những lời lẽ thân tình rồi bảo lui. Phía đông của Bảo Tháp hồi giá có một cây Trâm (Jimbu), cành lá đã khô nhưng vẫn còn chắc. Bên cạnh đó lại có một Bảo Tháp nhỏ, nơi mà Thái Tử cởi áo quý làm bằng da nai rồi tự mình cắt tóc. Tuy chỉ cởi chuỗi anh lạc mà còn chiếc áo trên người, y phục bình thường làm sao có thể cải đổi dễ dàng được. Lúc đó trời Tịnh Cư hoá thành chuột núp trong hai cánh áo da nai. Thái Tử đưa y lên mà nói rằng:
– Muốn trao đổi, thì nguyện phải đầy đủ.
Con chưột thưa rằng:
– Tốt
Đoạn Thái Tử cởi y phục giao cho con chuột. Được y con chuột thăng lên trời, mang áo nầy lui về hư không.
Nơi cởi áo của Thái Tử chẳng xa mấy có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng lên. Đây là nơi Thái Tử cắt tóc. Thái Tử tự lấy dao nơi Xa Nặc để cắt tóc. Thiên Đế Thích đưa về Thiên cung để cúng dường. Lúc bấy giờ Vua trời Tịnh Cư hóa làm một người có tóc cầm con dao đi bộ đến. Thái Tử hỏi:
– Có thể cắt tóc sao? Ngươi có thể cạo sạch cho ta.
Sau đó kẻ hóa thành người đó phụng mệnh cạo tóc.
Sau khi đi rời thành xuất gia mà thời gian nầy không rõ, có nơi nói lúc Bồ Tát 19 tuổi, có nơi nói 29 tuổi đó là nhằm giữa đêm ngày mồng 8 tháng Vệ Sa Khư, ra khỏi thành xuất gia tìm đạo nhằm ngày mồng tám tháng ba. Hoặc có nơi nói giữa đêm ngày 15 tháng Vệ Sá Khư, tức nhằm ngày 15 tháng 3.
Phía đông nam của Bảo Tháp, nơi Thái Tử cắt tóc là một ngôi rừng đi hơn 189 dặm, đến rừng Ni Câu Lô Đa, nơi đó có một Bảo Tháp cao hơn 30 thước. Ngày xưa, sau khi Như Lai tịch diệt, Xá Lợi được phân chia mà các Bà La Môn thì không có được. Sau lễ Trà Tỳ nên đến lấy phần than còn lại để mang về nước mình xây tháp để cúng dường. Tại nơi nầy có nhiều điều linh thiêng, ai có tật bịnh đến cầu nguyện thì khỏi.
Nơi phía Tháp trơ có một Già Lam cũ, đó cũng là nơi di tích của bốn vị Phật quá khứ tọa thiền cùng kinh hành.
Hai bên trái phải của Già Lam cổ có cả hàng trăm Bảo Tháp khác. Trong đó có một cái lớn do Vua A Dục xây, đã được tôn sùng nhưng đã bị hư hoại, cao hơn 100 thước.
Từ phía đông bắc đi về phía rừng lớn qua một con đường rất khó khăn và đầy nguy hiểm có sơn dương, voi, sư tử. Chúng đã làm hại không biết bao nhiêu người lữ hành nơi đây. Ra khỏi rừng nầy thì đến nước Câu Thi Na Kệ La.
Nước Câu Thi Na Kệ La thành ấp đã bị hư nhưng cũng có nhiều chỗ còn tốt, chu vi thành bằng gạch hơn 10 dặm. Người ở rất thưa thớt. Trong thành nội phía đông bắc có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nhà cũ của ông Thuần Đà, trong nhà có một cái giếng, mà ông đã lấy nước cúng cho Phật, thời gian tuy qua lâu nhưng nước giếng vẫn còn trong suốt.
Phía tây bắc của thành hơn 3.4 dặm băng qua sông A Tỳ Ba Phạt Đễ. Không xa bờ sông phía tây thì đến rừng Sa La. Loại cây nầy có vỏ xanh trắng, lá có nhiều ánh sáng. Có bốn cây thật cao. Đây là nơi Như Lai đã tịch diệt. Trong tịnh xá làm bằng gạch, có tạc tượng Như Lai nhập Niết Bàn, đầu nằm xây về hướng bắc. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây, mà nền móng đã nghiêng, cao hơn 200 mét. Phía trước có dựng một trụ đá ghi lại sự tịch diệt của Như Lai.
Tuy có chữ ghi nhưng không thấy ngày tháng. Tương truyền rằng: Phật sống 80 tuổi đến ngày 15 tháng Vê Sa Khư thì nhập Niết Bàn. Bây giờ nhằm ngày 15 tháng 3. Theo Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phật nhập Niết Bàn vào lúc nửa đêm ngày mồng tám tháng Ca Sắc Đệ Ca, bây giờ nhằm ngày mồng tám tháng chín. Việc Phật nhập Niết Bàn có nhiều bộ phái có ý kiến khác nhau, hoặc nói hơn 1200 năm, hoặc nói hơn 1300 năm, hoặc nói hơn 1500 năm, hoặc nói hơn 900 đến 1000 năm, (tính từ thời Ngài Đường Tam Tạng)
Cách Tịnh Xá chẳng xa, có một Bảo Tháp, đó là nơi ngày xưa Như Lai tu Bồ Tát hạnh cứu con chim trĩ chúa thoát chết. Vì là rừng cây cho nên có nhiều thú và chim muông làm tổ. Gió từ bốn phương thổi mạnh, con chim bị thương đau đớn phát tiếng ai oán mỗi lần nó bay lên. Lúc ấy Thiên Đế Thích thấy và nói rằng:
– Nhà ngươi sao lại ngu thế mang một đôi cánh nặng nhọc như thế. Khi lửa cháy rừng há ngươi chẳng biết bị hại đến tánh mạng sao?
Con chim trĩ đáp rằng:
– Ai nói vậy?
Đáp rằng:
– Ta là Thiên Đế Thích đây
Con chim trĩ nói:
– Hôm nay Thiên Đế Thích có đại phước lực, không muốn chẳng gặp. Cứu tai trừ nạn, nếu có thể ra tay. Bằng không thì chẳng có công đức gì hết. Bây giờ, lửa cháy đã nhiều rồi không thể dùng lời nói nữa, hãy làm cho tất cả bay đi, lòai khác thì cho lặn xuống nước.
Rồi thì Đế Thích mang nước tưới vào rừng, lửa tắt hết khói các mạng sống hoàn mệnh. Cho nên, đây có tên là Bảo Tháp Cứu Hỏa.
Cách Bảo Tháp Cứu Hỏa không xa, đó là nơi Như Lai tu Bồ Tát hạnh cứu sanh mạng của con nai. Ngày xưa đây cũng là một khu rừng lớn. Khi lửa bắt đầu cháy, muôn thú chạy tứ tán. Chạy phía trước gặp một nơi rất nguy hiểm, thối lui sau thì gặp ngọn lửa lớn. Chắc phải trầm mình để thí thân mạng nầy. Trong lúc con nai lo chạy thoát thân nhìn tới nhìn lui, không muốn bị chết thiêu, bỗng nhiên có một con thỏ phía sau chạy tới, trông thấy nó rất là khổ sở. Nước đã đến cổ và đến lưng nên phải chết. Chư Thiên thâu cốt về xây tháp. Không xa về phía tây của Bảo Tháp con nai nầy là nơi ông Tu Bạt Đà Na nhập diệt. Ông ta vốn là người theo Phạm Chí sống đến 120 tuổi, là người đặc biệt đa trí, nghe Phật nhập diệt, đến rừng Ta La Song Thọ yêu cầu ngài A Nan thưa rằng:
– Tuy biết đức Phật sắp Nhập diệt, nhưng tôi còn nhiều điều nghi ngờ, nguyện muốn được thỉnh vấn.
A Nan bảo:
– Phật sắp vào Niết Bàn không nên quấy rầy.
Đáp rằng:
– Tôi nghe Phật ở đời khó gặp, chánh pháp khó nghe. Tôi có lòng nghi lớn sợ rằng không thể hỏi ở đâu được.
Tu Đạt bèn được vào trước gặp Phật và hỏi Phật rằng:
– Ai cũng tự xưng làm Thầy riêng biệt, Mỗi vị có mỗi pháp khác nhau để giảng dạy cho người đời, Cồ Đàm có thể biết hết không?
Như Lai đáp:
– Ta đã chứng đắc và hiểu biết sâu xa mà vì đó diễn thuyết. Ngài Tu Đạt nghe xong tín tâm thanh tịnh, cầu vào trong pháp nầy để được thọ Cụ Túc giới.
Như Lai bảo rằng: Ngươi há có thể làm được sao? Ông là kẻ ngoại đạo tu học theo Phạm Chí, từ lúc lên bốn?
Sau khi quán sát những việc làm và tư cách, oai nghi tịch tĩnh, ngôn ngữ thành thật, liền cho vào trong Giáo đoàn của Ngài để tu phạm hạnh. Tại đó ông thực hành không có gì khó cả.
Tu Đạt đáp rằng:
– Thế Tôn thương tưởng tế độ vô tư. Từ bốn tuổi đã học ba nghiệp cho nên thuận lợi.
Phật bảo rằng:
– Ta đã nói hết rồi, ngươi tự mà hành trì.
Liền cho phép Tu Đạt xuất gia và thọ giới Cụ Túc. Ông ta tinh cần tu tập phát tâm dõng mãnh. Ở trong pháp chẳng nghi mà tự chứng được đạo quả. Đêm chưa tàn, ông đã chứng được quả A La Hán, các lậu đã hết, các phạm hạnh đã lập và không muốn thấy cảnh Phật nhập Niết Bàn cho nên liền từ trong chúng nhập vào lửa tam muội hiện biến thần thông để tịch diệt trước. Đây là đệ tử cuối cùng của đức Như Lai.
Cho đến trước khi nhập diệt Như Lai còn độ cho ông Tu Đạt, hậu thân của con thỏ què kiếp trước.
Bên cạnh tháp tịch diệt của Thiện Hiền là nơi của các thần Chấp Kim Cang. Đức Đại Bi Thế Tôn tùy căn cơ mà làm lợi lạc. Việc hóa độ đã xong nên vui vào cảnh Niết Bàn, nơi hai cây Ta La Song Thọ, nằm đầu xoay về hướng bắc. Thần Chấp Kim Cang Mật Tích Lực Sĩ thấy Phật diệt độ sầu thảm than rằng:
– Như Lai đã bỏ con mà vào Niết bàn rồi, không có chỗ nương tựa, không có chỗ bảo hộ, như gặp phải tên độc và gặp phải lửa dữ. Thần Kim Cang buồn thả chày trên mặt đất, rồi bi ai luyến tiếc và tự nói rằng: Biển sanh tử lớn lao, ai là người có thể tạo thuyền được. Đêm dài vô minh tăm tối ai là bậc làm đuốc soi đường.
Phía bên Bảo Tháp nơi Thần Kim Cang bỏ chày là nơi mà thiết lễ cúng dường sau khi Như Lai diệt độ bảy ngày. Khi Như Lai sắp diệt độ ánh sáng chiếu bừng lên, trời người đều thấy biết, chưa hết sầu bi thì đã nghe la rằng:
Đấng Đại Giác Thế Tôn sắp vào Niết Bàn, chúng sanh phước đã hết, Thế gian không có nơi nương tựa. Đức Như Lai nằm với dáng sư tử nghiêng bên phải bảo với đại chúng rằng:
– Hãy đừng thấy Như Lai nhập diệt, vì pháp thân thường trụ lìa các sự biến đổi. Hãy đừng giải đãi nữa mà sớm cầu giải thoát.
Các vị Tỳ kheo nghe rồi lòng rất bi cảm. Lúc bấy giờ ngài A Na Luật bảo cùng các Tỳ Kheo rằng:
– Hãy đừng sầu bi nữa, để cho chư thiên quở trách. Lúc bấy giờ dân chúng làng Mạt La đến cúng dường rồi muốn giở kim quan của đức Phật nơi ngài nhập Niết Bàn thì ngài A Na Luật bảo rằng:
Hãy dừng lại, chư thiên muốn lưu lại bảy ngày để cúng dường.
Chư Thiên mang hoa hương kỹ nhạc từ trên không trung tán tụng Thánh Đức, ai ai cũng đều thành tâm để lo việc cúng dường.
Bên cạnh chỗ để kim quan ấy có một Bảo Tháp, là nơi Ma Gia phu nhân khóc thương Phật. Sau khi đến viếng thăm kim quan. Lúc đức Như Lai tịch diệt. Lúc bấy giờ Ngài A Na Luật cáo bạch với Ma Gia phu nhân rằng:
– Đấng Đại Thánh Pháp Vương đã tịch diệt rồi.
Ma Gia nghe xong bi lụy buồn khổ, cùng với Thiên Chúng xuống nơi Ta La Song Thọ. Thấy Đại Y, Bình Bát và Tích Trượng, vỗ kim quan sầu thảm bi ai than rằng:
– Phước của trời người đã hết. Thế gian không còn mắt nữa. Từ đây không còn ai làm chủ.
Lúc ấy nhờ vào Thánh lực của Như Lai, nắp kim quan tự mở ra, phóng đại quang minh, đức Phật ngồi dậy chắp tay an ủi hỏi han từ mẫu từ xa giáng xuống. Các pháp hành đều như thế xin đừng sầu bi. Ngài A Nan đứng kế cận đó cũng bi ai mà thỉnh Phật rằng:
– Như người đời sau hỏi con, con biết đối đáp làm sao!
Đáp rằng:
– Khi Phật nhập Niết Bàn mà từ mẫu Ma Gia từ thiên cung giáng xuống rừng Sa La. Như Lai vì chúng sanh bất hiếu mà từ kim quan trổi dậy chắp tay để nói pháp. Phía bắc của thành qua con sông ba trăm bước đi bộ có một Bảo Tháp. Đó là nơi làm lễ trà tỳ của đức Như Lai. Nơi đất hỏa táng nầy cho đến bây giờ vẫn còn màu vàng và màu đen. Có người chí thành thỉnh cầu cũng được Xá Lợi. Khi đức Như Lai tịch diệt, trời người bi cảm, đã bọc bảy lớp báu chung quanh quan tài với cả ngàn sợi dây, đem hương hoa và tràng phan bảo cái trang hoàng trang nghiêm đẹp đẽ trước sau hai bên đường. Phía bắc qua một con sông toàn là mùi hương dầu gồm nhiều loại hương khác nhau từ gỗ thơm để hỏa thiêu. Gồm hai lớp quấn không thiêu được, một lớp sát trong thân, một lớp bao ở bên ngoài, để vì chúng sanh mà phân tán Xá Lợi. Duy chỉ có tóc và móng tay là không tổn hại.
Bên cạnh chỗ trà tỳ có một Bảo Tháp, đây là nơi mà Như Lai đã hiện hai chân ra cho ngài Đại Ca Diếp thấy. Vì dưới kim quan đức Như Lai, chất toàn là gỗ thơm. Khi hỏa thiêu, không cháy làm cho mọi người kinh ngạc. Ngài A Na Luật bảo rằng hãy chờ Ngài Ca Diếp đã. Lúc ấy Ngài Đại Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử từ rừng xa về đến thành Câu Thi và hỏi ngài A Nan rằng:
– Có thể xem thân thể Thế Tôn chăng?
Ngài A Nan đáp:
– Đã quấn hàng ngàn lớp vải chung quanh rồi, đồng thời đã chưẩn bị gỗ thơm để thiêu.
Ngay lúc ấy, Phật từ trong kim quan thò hai chân ra và hình bánh xe trong lòng bàn chân đã biến sắc. Đoạn hỏi A Nan:
– Làm sao có việc nầy được?
Đáp rằng:
– Phật đã vào Niết Bàn lần thứ nhất. Trời người bi lụy. Nước mắt của họ đã thấm vào chân cho nên mới biến sắc như vậy.
Ngài Ca Diếp đã đảnh lễ đi nhiễu và tán thán ca ngợi. Lúc bấy giờ gỗ thơm mới bắt đầu phựt lửa cháy lớn. Đây là ba lần ra khỏi quan tài của Như Lai sau khi tịch diệt. Lần thứ nhất ra để hỏi A Nan cách trị lộ (giữ đường). Lần thứ hai, ngồi dậy thuyết pháp cho mẫu hậu. Lần thứ ba hiện đôi chân cho Ngài Ca Diếp thấy. Phía nơi hiện chân ra của đức Phật có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng. Đây là nơi phân chia tám phần Xá Lợi cho tám ông Vua. Phía trước có dựng trụ đá có khắc ghi lại việc nầy. Sau khi thị tịch, Phật vào sâu trong Niết Bàn. Chư Vương trong tám nước đem bốn loại binh đến và có những vị Trực Tánh Bà La Môn đến thành Câu Thi yêu cầu những đại lực sĩ rằng:
– Bậc Thầy của trời và người đã tịch diệt ở nước nầy cho nên lặn lội đến đây để chia Xá Lợi
Lực sĩ đáp:
– Như Lai giáng sanh ở đây là bậc Tôn Quý, thị tịch ở đây. Việc thị tịch ấy thế gian đã biết rõ. Ngài là bậc cha lành của chúng sanh, đương nhiên Xá Lợi của Như Lai được cúng dường, mà những kẻ bên ngoài không được gì cả.
Lúc bấy giờ các Đại Vương mới tìm đến, rồi chẳng hài lòng nên nói rằng:
– Việc thỉnh Xá Lợi chẳng phải là dùng binh lính từ xa đến uy hiếp và ông Trực Tánh Bà La Môn nói cao giọng rằng:
– Kính lạy đức Đại Bi Thế Tôn, Ngài tu phước và làm lành qua nhiều đời nhiều kiếp. Ở đây ai cũng nghe đầy đủ rồi, mà nay còn muốn tranh giành xá lợi của Ngài là điều rất phi lý.
Bấy giờ Xá Lợi chia ra làm tám phần, mỗi vị đều được cúng dường, khỏi phải cần binh lính. Các lực sĩ y theo lời nầy, liền chia ra làm tám phần và Đế Thích nói với chư Vương rằng:
– Trời cũng sẽ có một phần xin đừng dùng lực mà mang đi.
Long Vương A Na Bà Đáp Đa, Long Vương Văn Lân, Long Vương Y Na Bát Đản Đa… cùng bàn với nhau tại sao mình không có. Nếu mà dùng lực để cạnh tranh, chắc là không địch nổi.
Ông Trực Tánh Bà La Môn nói rằng:
– Đừng có tranh nữa. Ai cũng có phần hết.
Sau đó chia ra làm ba phần, phần thứ nhất cho chư Thiên, phần thứ hai cho Long Vương, phần thứ ba cho Người lưu giữ, chia đều cho tám Vua. Lúc ấy Trời, Rồng, Người, Vua chẳng ai buồn gì cả.
Phía Tây Nam của Bảo Tháp phân chia Xá Lợi, đi hơn hai trăm dặm, thì đến làng của một vị Bà La Môn. Ông nầy là người giàu có sung túc, thật học không xen tạp, nghiên cứu Ngũ Minh, tôn kính Tam Bảo. Ông ta đến ở đây và kiến lập nơi chốn để cúng dường chư Tăng. Ông cung cấp đầy đủ những vật dụng cần thiết khi mà chúng Tăng ngang qua nhà. Ông vui vẻ cung thỉnh lưu lại và phát tâm cúng dường. Hoặc ở lại một đêm cho đến bảy ngày. Trong khi đó Vua Thường Ca hủy diệt Phật pháp, chúng Tăng dần dần chẳng còn ai. Ông Bà La Môn luôn luôn hoài niệm. Có hôm đang đi kinh hành, thấy một vị Sa Môn tóc bạc mi dài tay cầm tích trượng đang đi. Vị Bà La Môn chạy đến trước mặt và hỏi:
– Ngài từ đâu đến?
Sau đó thỉnh vào tăng phòng để làm lễ cúng dường cháo nấu bằng sữa. Vị Sa Môn đang ăn, bị sút một cái răng. Ngài để bình bát xuống và trầm ngâm suy nghĩ. Vị Bà La Môn quỳ xuống hỏi rằng:
– Đại Đức liễu tri. Nhân duyên gì mà suy tư như thế, có phải vì đêm qua không an ổn hay vì cháo không ngon?
Vị Sa Môn từ tốn đáp rằng:
– Ta thương cho chúng sanh phước mỏng, muốn nói mà chưa đúng lúc. Ăn xong sẽ nói.
Sau khi Sa Môn ăn xong xếp y. Ông Bà La Môn thưa:
– Ngài đã hứa khả, sao Ngài chưa nói?
Sa Môn đáp:
– Ta không quên đâu. Nhưng mà nói không dễ dàng. Cho đến khi nào sự viêc thành nghi, ta mới nói. Ta tán thán không phải coi nhẹ bát cháo của ngươi đâu, và từ trăm năm nay chưa được mùi vị như thế. Ta đã có mặt từ khi Như Lai còn tại thế. Trong Tinh Xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, ta rửa chén bát, hoặc lấy nước tắm. Khi phước báo của trời người đã hết giống như sữa sẽ thành nước trong.
Bà La Môn hỏi:
– Đích thân Đại Đức có gặp Phật không?
– Đương nhiên, Người không nghe La Hầu La, đệ tử của Phật. Chính ta đó. Vì hộ trì Chánh Pháp của Phật mà chưa vào Niết Bàn.
Nói xong, liền biến mất không còn thấy nữa. Vị Bà La Môn bèn quét dọn căn phòng sạch sẽ, xông hương và tạo tượng và cung kính như lúc đã gặp.
Lại nữa từ rừng sâu kia đi hơn 500 dặm, đến nước Bà La Nê Tu (Ba La Nại)
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển thứ sáu