Đại Đường Tây Vức Ký (kỳ 16)

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
                                                                             Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 16)
QUYỂN THỨ BẢY
(5 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng TrìSa Môn Biện Cơ soạn

  1. Nước Ba La Nại
  2. Nước Chiến Chủ
  3. Nước Phệ Xá Phân (Tỳ Xá Ly – Vesali)
  4. Nước Phất Phiêu Trì
  5. Nước Ni Ba La

Phía bắc sông Hằng, có một đền thờ Na La Diên. Lầu các nhiều tầng, trang hoàng xinh đẹp. Các tượng chư Thiên đều làm bằng đá. Người đời nói rằng rất linh ứng khó có thể nói hết. Phía đông của đền thờ Na La Diên, đi hơn 30 dặm có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Một nữa trụ đá đã bị ngã xuống đất cao hơn hai trượng. Phía bên trên có tạo hình đầu Sư Tử và khắc ghi những sự tích chiến đấu với Quỷ. Ngày xưa ở nơi nầy có một khu rừng bị Quỷ chiếm, có uy lực lớn chờ bắt người ăn thịt uống máu, sát hại rất nhiều sinh linhvô cùng khốn khổ.

Đức Như Lai, thương chúng sanh không muốn thấy sự chết nầy, nên dùng thần thông biến hóa để dụ các loài Quỷ nầy dẫn chúng quy y và thọ giới không sát sanh. Các loài quỷ vâng theo lời dạy quay quanh hòn đá và thỉnh Phật ngồi, nguyện nghe Chánh Pháp và hết sức giữ gìn. Từ đó về sau không còn ai sợ nữa. Cả hai bên đến ngồi bên phiến đá, có đến số ngàn mà đá kia không thể lay chuyển. Nơi đây có rừng cây và ao nước bao bọc tả hữu cho nên người đến đây tâm rất lắng đọng.

Gần nơi hàng phục quỷ có một số chùa, tuy đa phần bị hư hoại nhưng vẫn còn tu sĩ. Tất cả tu theo giáo lý Đại Thừa. Từ phía đông nam đi hơn một trăm dặm nữa, đến một Bảo ThápBảo Tháp đã nghiêng và cao hơn mấy chục mét. Chuyện xưa kể lại rằng: Sau khi Như Lai diệt độ. Khi tám ông vua của tám nước phân chia Xá Lợi của Phật. Phần Xá Lợi mà ông Bà La Môn nhận không còn mà gửi hết cho các Vua. Ông ta mang bát không trở về, sau đó được Xá Lợi dính vào bát nên tạo thành tháp nầy. Sau đó để bình bát vào bên trong nên có tên như vậy. Sau nầy vua A Dục cho mở tháp và lấy Xá Lợi trong bát ra để kiến tạo một Bảo Tháp khác. Khi mặt trời lên, phóng quang minh. Từ phía đông bắc tháp đi qua sông Hằng hơn 145 dặm đến nước Phệ Xá Phong (Tỳ Xá Ly).

3) Nước Phệ Xá Phong (Tỳ Xá Ly)

Nước Phệ Xá Phong (Tỳ Xá Ly), chu vi hơn năm ngàn dặm, đất đai màu mở, hoa quả xanh tươi. Đặc biệt là xoài và mía, nơi đây có nhiều nông sản quý. Khí hậu phong tục tập quán thuần chất. Dân thích làm phước ưa học tập, tà chánh đều tin lẫn lộn. Có hơn 100 ngôi già lam đa phần bị hư hoại chỉ còn lại 35 ngôi. Tăng tín đồ rất ít. Đền thờ hơn 10 ngôi. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Những người tu lõa thể rất nhiều. Thành Tỳ Xá Ly cũng đã bị loang lỗ hư hại. Dấu tích ngày xưa còn lại nơi đây chu vi khoảng 67 dặm.

Cung thành chu vi bốn dặm ruỡi, ít có người ở. Cung thành phía tây bắc năm dặm sáu đến một ngôi Già Lam, tăng sĩ nơi đây cũng ít. Họ học theo phái Tiểu thừa Chánh Luợng Bộ. Bên cạnh đó có một Bảo ThápNgày xưa đức Như Lai đã nói kinh Tỳ Ma La Cật (Duy Ma Cật) tại đây. Đây là nơi mà Truởng Giả đã hiến Bảo Cái quý. Ở tại phía đông nầy có một Bảo Tháp, ở đó ngài Xá Lợi Phất đã chứng được quả Vô Học (A La Hán). Phía đông nam nơi ngài Xá Lợi Phất chứng quả có một Bảo Tháp do Vua Tỳ Xá Ly kiến lập. Sau Phật Nhập Niết Bàn, Tiên Vương của nước nầy cũng được Xá Lợi khi phân chia cho nên xây dựng Bảo Tháp nầy. Có truyền thuyết rằng ở trong nầy Xá lợi Như Lai một hộc, khoảng mười đấu. Vua A Dục mở ra lấy chín đấu, chỉ còn lưu lại một đấu.

Sau đó có vị Quốc Vương muốn khai mở tiếp để tìm thì đất ở đây chấn động nên chẳng dám khai mở. Từ phía tây bắc có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên, bên cạnh có một trụ đá, cao 56 thước ta. Bên trên thì có tượng đầu Sư Tử. Phía nam trụ đá có một cái hồ. Nơi đây những con khỉ đã hầu cận Phật. Tương truyền rằng đức Như Lai đã ở nơi đó. Cách hồ phía tây không xa mấy lại có Bảo Tháp, có những con khỉ chờ đức Như Lai đặt bát chúng đem mật đến.

Cách hồ về phía nam không xa mấy nơi đây những con khỉ dâng cúng mật cho Phật. Phía tây bắc của hồ, có xây dựng hình tượng những con khỉ. Cách 3 dặm về phía đông bắc ngôi Già Lam có một Bảo Tháp, là nơi nhà cũ của ông Duy Ma Cật. Có nhiều điềm linh dị. Từ đây chẳng bao xa, có một thần xá còn một bờ gạch. Tương truyền rằng Truởng giả Duy Ma Cật thị hiện tật bệnh mà thuyết pháp. Đi cách đây không xa mấy có một Bảo Tháp là nơi nhà chứa những đồ quý. Từ đây đi không xa mấy, có một Bảo Tháp, đó là vuờn xoài nơi ni chúng ở. Nơi mà Di mẫu của Phật cùng với các vị Tỳ Kheo Ni chứng nhập Niết Bàn ở nơi nầy.

Cách ngôi Già Lam về phía bắc ba dặm tư có một Bảo Tháp là nơi Như Lai chuẩn bị đi về nước Câu Thi Na. Khi đức Phật nhập Niết Bàn, người cùng phi nhơn đi theo Thế Tôn đến đây thì dừng lại. Kế tiếp phía tây bắc không xa có một Bảo Tháp, đây là nơi đức Phật nhìn thành Tỳ Xá Ly cuối cùng. Cách không xa về phía nam có một tinh xá, phía trước có xây dựng một tinh xá. Đây là nơi vuờn xoài một nữ thí chủ cúng cho Phật.

Phía bên vuờn xoài, có một Bảo Tháp, đây là nơi Như Lai bảo rằng Như Lai sẽ vào Niết BànNgày xưa tại nơi đây Phật bảo ngài A Nan rằng:

– Kẻ chứng được tứ thần túc có thể ở lại đời một kiếp. Như Lai bây giờ nên thọ bao nhiêu tuổi?

Hỏi đến ba lần nhưng A Nan chẳng đáp lại, vì Thiên ma đã mê hoặc, cho nên Ngài A Nan từ tòa đứng dậy đi vào trong rừng trầm ngâm. Lúc bấy giờ ma lại thỉnh Phật rằng:

– Như Lai ở đời giáo hóa xong rồi. Số người được tế độ nhiều như trần saTịch diệt là niềm vui, bây giờ đã đến lúc rồi.

Thế Tôn chống tay xuống đất đứng lên nói với ma rằng:

– Đất ở bên ngoài nhiều hơn hay đất trong móng tay nhiều hơn?

Đáp rằng:

– Đất ở dưới đất nhiều

Phật bảo:

– Những gì ta đã độ giống như đất trong móng tay nầy. Những gì ta chưa độ như đất dưới mặt đất nầy. Sau ba tháng nữa ta sẽ vào Niết Bàn.

Ma nghe rất hoan hỷ rồi lui. Ngài A Nan ở trong rừng cảm thấy khó chịu và nằm mơ đến bạch Phật rằng:

– Con ở trong rừng nằm thấy một cây đại thọ cành lá sum sê bóng mát che phủ nhưng bỗng nhiên gió thổi mạnh làm tiêu tán hết không còn gì cả, nên nghĩ rằng không lẽ Thế Tôn muốn nhập diệt sao! Tâm con hoài nghi, cho nên đến đây để thưa thỉnh.

Phật bảo:

– A Nan, ta nói với ngươi trước rồi, ngươi thì bị ma lực không chịu thưa thỉnh ngay lúc đó cho nên ma vương đã khuyên ta sớm nhập Niết Bàn. Ta vừa hứa xong. Điềm mộng đó là vậy.

Không xa cách nơi thông báo thời kỳ nhập Niết bàn, có một Bảo Tháp là nơi mà một ngàn người con gặp mẹ. Tích xưa kể lại có một vị tiên nhơn ẩn cư trong hang động. Thời tiết giữa mùa xuân khí trời tốt tươi, có một con nai sắp sanh con, đi uống nước. Thấy dáng nai đi qua, tiên nhơn bắt giữ để nuôi. Một hôm bảo nai đi tìm lửa, bỗng dưng tiên thấy dưới chân nai có một đóa hoa sen khi nai đến gần vị tiên. Thấy vậy lấy làm kỳ lạ, bèn ra lệnh đi quanh thảo lư tự nhiên được lửa. Nai mẹ vâng lời như vậy, khi được lửa xong thì lui. Lúc bấy giờ Phạm vương dạo chơi tìm bông hoa, sự thấy việc lạ lùng kinh dị nên đem cả hai cùng về. Có người tiên đoán rằng nai sẽ sanh một ngàn đứa con.

Nghe như vậy và ngày tháng đầy đủ thì sinh ra một hoa sen, mà hoa sen đó có ngàn cánh, mỗi cánh như vậy có một đứa bé ngồi. Nai cái ấy không biết, nên đem ném xuống sông Hằng. Có một con chim tha hoa ấy đến bên vuờn vua hạ xuống. Mây vàng và Bảo Cái che chởHoa sen nở ra một ngàn đứa bé. Nhà Vua lấy sữa để nuôi lớn lên, chúng rất mạnh khỏe.

Lúc bấy giờ thành một ngàn chàng trai mang binh hùng mạnh đi chinh phạt bốn phương. Tại nước nầy, Phạm vương nghe được rất lo toan. Binh lực không địch được, không thể xuất quân. Lúc bấy giờ con nai mẹ biết con mình cho nên nói với vua rằng:

– Nếu mà đánh thì trên dưới sẽ không hòa. Dù là giặc hay trung, khôn hay dại sẽ thất bại trước sức mạnh không thể địch nổi. Vua chưa tin điều đó nên lo lắng vô cùng.

Con nai cái lên thành chờ, một ngàn người con và binh lính đến vây thành, con nai cái bảo:

– Đừng có phản nghịch. Ta là mẹ các ngươi, các ngươi là con ta.

Một ngàn người con nói:

– Sao nói bậy vậy?

Con nai cái lấy tay chỉ vào hai vú, liền chảy ra một ngàn giọt. Nhờ thiên tánh chiêu cảm nên sữa vào thẳng trong miệng của họ. Vì vậy họ giải giáp trở lại với dòng Thích, sau đó hai nước giao hảo với nhau và bá tánh được an lạc.

Không xa, cách nơi một ngàn đứa con quy thuận có một Bảo Tháp ghi lại dấu tích nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã đi kinh hành, và Ngài lấy tay để chỉ đại chúng rằng:

– Ngày xưa ta ở đây quy thuận trở về thân tộc một ngàn đứa con đó, tức là một ngàn vị Phật trong hiền kiếp nầy.

Đó là sự tuờng thuật có trong kinh Bổn Sanh, và ở phía đông nơi nầy lại có một Bảo Tháp được dựng lên. Nơi đó ánh sáng chói lọi, ai kỳ nguyện sẽ được toại ý, mà Như Lai nói trong kinh Phổ Môn Đà La Ni.

Nhà cửa giảng đường đều còn dấu vết nơi đây.

Không xa mấy, cách giảng đường có một Bảo Tháp. Ở giữa đó có nửa thân Xá Lợi của Ngài A Nan. Từ đây chẳng xa mấy lại có hàng trăm Bảo Tháp khác. Muốn biết rõ số bao nhiêu cũng không thể biết được. Đây là nơi nhập diệt của một ngàn vị Độc Giác Phật. Chu vi trong ngoài của thành Tỳ Xá Ly rất rộng. Thánh tích có rất nhiều nhưng mà khó có thể biết hết được. Có nơi hình thức vẫn còn nhưng đã hư hoại, thời gian năm tháng gió mưa làm thay đổi. Bên rừng lại còn một hồ nước mà nay thì nước đã khô.

Những dấu tích của cây quý vẫn còn nơi đây. Phía Tây bắc của đại thành, đi hơn 56 dặm, đến một Bảo Tháp lớn. Nơi đây ghi lại chỗ ông Phiêu Chiêm Bà Tử từ biệt đức Thích CaNhư Lai từ thành Tỳ Xá Ly hướng về nước Câu Thi Na. Vị Phiêu Chiêm Bà Tử nghe Phật sẽ nhập diệt rất buồn rầu khổ sở đến để đưa đi. Đức Thế Tôn thấy ông buồn như thế thì không có lời nào để khuyên được tức thời dùng thần lực để hóa ra một con sông lớn. Bờ sông đó rất sâu, sóng mạnh, nước chảy xiết, ông Phiêu Chiêm Bà sầu bi dừng lại và đức Như Lai để bình bát lại làm kỷ niệm.

Ít hơn 200 dặm về phía Tây bắc thành Tỳ Xá Ly, lại có một cổ thành hoang phế từ lâu không có người cư trú, trong đó có một Bảo Tháp, đây là nơi Phật ngày xưa đã vì chư vị Bồ Tát, Trời, người đại chúng diễn thuyết kinh Bổn Sanh khi tu hạnh Bồ Tát. Từng ở nơi thành này làm Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Ma Ha Đề Bà (Đại Thiên). Vua có đầy đủ thất bảo và bốn phương trời đất. Khi hiểu lý vô thường làm cho thân thể thay đổi, nhớ lời nguyện uớc cao xa, bỗng quên hẳn địa vị lớn của mình, bỏ nước xuất gia, mặc y hoại sắc để tu học.

Phía đông nam thành, đi hơn 14.5 dặm đến một Bảo Tháp lớn. Đây là nơi mà bảy trăm vị Hiền Thánh kết tập sau Phật nhập Niết Bàn 110 năm. Có các vị Tỳ kheo của thành Tỳ Xá Ly xa rời Pháp Phật, thực hành sai giới luật. Lúc bấy giờ Truởng Lão Da Giá ở nước Kiều Tất La. Truởng Lão Tam Bồ Da ở nước Châu Thố La, Truởng Lão Phấn Ba Đa ở nước Hàng Nhược; Truởng Lão A Nha ở nước Tỳ Xá Ly; Truởng Lão Phú Phiệt Tô Di La ở tại nước Bà La Lị Phất, Các Truởng Lão Đại A La Hán tâm được tự tại trì giữ Tam Tạng chứng được tam minh, được đại danh xưng là những bậc tri thức, tất cả đều là đệ tử của Tôn Giả A Nan. Lúc bấy giờ ngài Da Xá bảo các vị Hiền Thánh rằng:

– Tất cả đều tập họp ở thành Tỳ Xá Ly, chỉ thiếu một người nữa là đủ 700 vị.

Khi ấy ngài Phú Phiệt Tô Di La dùng thiên nhãn để thấy các bậc Đại Hiền Thánh vân tập hội nghị, rồi vận thần túc đi đến Pháp Hội. Khi ấy ngài Tam Bồ Da ở trong đại chúng sửa y bày vai phải ra và quỳ xuống bạch rằng:

– Mọi người đừng có rầu rĩ mà hãy nhớ lại rằng ngày xưa khi đấng Đại Thánh Pháp Vương quyền biến thị tịchThời gian dầu trôi qua nhưng lời dạy của Ngài còn đó. Các thầy Tỳ Kheo giải đãi tại thành Tỳ Xá Ly hủy báng giới luật đưa ra mười sự việc sai với mười luật đã dạy. Bây giờ các vị Hiền giả ấy đã rõ ràng biết phạm mà nhờ ngài A Nan chỉ giáo sám hối, nhớ lại ân Phật mà trùng tuyên Thánh Chỉ. Lúc đó các bậc Thánh mới khỏi lo lắng, liền triệu tập các vị Tỳ Kheo y theo Tỳ Nại Da (Luật tạngquở trách và ngăn cấm. Để trừ sự hủy báng Pháp và tuyên dương Thánh Giáo.

Phía nam của nơi 700 Hiền Thánh kiết tập đi hơn 89 dặm, đến chùa Thất Phệ Đa Bổ La. Chùa Viện đổ nát. Nhà cửa hư hoại. Tuy nhiêntăng chúng thanh tịnh và tu theo Đại Thừa. Bên cạnh đó là nơi ghi lại di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Tháp nầy do Vua A Dục xây dựng. Tại nơi đây ngày xưa Như Lai về phương nam đi đến nước Ma Kiệt Đà, về phía bắc ngoái nhìn thành Tỳ Xá Ly, giữa đường ngài dừng lại di tích nầy.

Ở phía đông nam chùa Thất Phệ Đa Bổ La hơn 30 dặm, đến sông Hằng, nam bắc của bờ sông nầy mỗi nơi có một Bảo Tháp. Đó là nơi Tôn Giả A Nan đã phân thân cho hai nước. Ngài A Nan là anh em chú bác với Như Laiđa văn hiểu rộng biết nhiều kiến thức dồi dào. Sau khi Phật nhập diệt, kế đến ngài Ca Diếp giữ gìn Chánh Pháp lãnh đạo mọi người. Khi đi trong rừng của nước Ma Kiệt Đà, thấy một Sa Di phúng tụng kinh Phật. Chương cú sai, văn tự lẫn lộn, Ngài A Nan nghe xong liền cảm hoài lo lắng mới hỏi và chỉ bày. Sa Di cười và bảo rằng:

– Sư Ông già rồi, Sư Ông lầm. Thầy của con cao minh còn sáng suốt lắm.

Chính Ngài chỉ giáo nhưng Sa Di không sửa đổi. Ngài A Nan bèn thôi và than rằng:

– Ta tuy tuổi đã cao nhưng vì các chúng sanh muốn ở lại đời lâu hơn để giữ gìn Chánh Pháp, mà thấy chúng sanh nghiệp nặng khó dùng lời để chỉ giáo, nên dẫu có ở lại lâu hơn cũng chẳng lợi ích gì, thôi sớm diệt độ.

Rồi Ngài đi đến nước Ma Kiệt Đà, từ thành Tỳ Xá Ly, Ngài đi qua sông Hằng bằng thuyền. Khi đó Vua nước Ma Kiệt Đà nghe ngài A Nan đến nhớ lại Đức xưa liền đem xa giá đến để nghinh thỉnh. Số luợng có hơn 100 ngàn quân lính tập trung ở bờ sông phía nam. Vua Tỳ Xá Ly nghe ngài A Nan đi rồi, tâm sầu muộn, liền sai quân lính hơn 100 ngàn người nghinh tiễn tập trung ở bờ sông phía bắc.

Hai bên quân trận đối nhau dàn cờ, Ngài A Nan sợ chiến đấu, binh lính sát hại lẫn nhau cho nên từ trong thuyền, Ngài bay lên hư không thị hiện thần biến, tức nhập tịch diệt. Ngài dùng lửa tam muội thiêu thân và xá lợi bay trong không trung. Một phần rơi về phía nam, một phần rơi về bờ sông phía bắc. Mỗi bên hai vua được một phần, liền ra lệnh cho quân lính lui về xứ của mình, rồi cho xây dựng Bảo Tháp để tu hành cúng dường. Từ phía đông bắc nầy đi hơn năm trăm dặm, đến nước Phất Phiêu Trì.

Ky16

4) Nước Phiêu Trì

Nước Phiêu Trì chu vi hơn 4000 dặm, từ đông qua tây dài, từ nam ra bắc hẹp. Đất đai màu mỡ, hoa trái xinh tươi. Khí hậu ấm áp. Nhơn tình còn thô tháo, đa phần tôn kính ngoại đạo, thiếu tín tâm đối với Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng sĩ, tu theo cả hai bộ phái Đại thừa và Tiểu thừa. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Đại Đô Thành tên là Chiêm Mậu Na Noa, đa phần bị hư hoại. Trong cung thành xưa có hơn 3000 nóc nhà, chia ra từng thôn ấp.

Phía đông bắc của sông lớn có một Già Lamtu sĩ ít nhưng học nghiệp rất thanh cao. Từ đây đi về hướng tây, nương theo bờ sông có một Bảo Tháp cao hơn ba trượng. Dọc theo phía Nam là nơi mà đức Đại Bi Thế Tôn độ cho người câu cá.

Lúc Phật còn tại thế, có năm trăm ngư phủ đan luới bắt cá và các loài thủy tộc. Ở tại sông nầy họ bắt được một con cá lớn 18 đầu, mỗi đầu có hai mắt, những ngư phủ muốn sát hại nó. Lúc đó đức Như Lai đang ở nước Tỳ Xá Ly dùng Thiên Nhãn để quán chiếu và dùng lòng đại bi mà nhân cơ hội nầy đến đây để hóa đạo làm cho mọi người được hiểu biết và báo cho chư vị tu theo Đại thừa biết rằng trong nước Phất Phiệt Trì có một con cá lớn. Ta muốn hóa đạo làm cho những ngư dân kia được tỏ ngộ, Ngài dùng thần túc thông đưa đại chúng đến bờ sông nầy, ngồi kiết già và bảo những ngư phủ rằng:

– Đừng giết con cá đó, ta sẽ dùng thần lực để mở cửa phương tiện cho các ngươi biết về túc mệnh của con cá nầy. Cá ơi! Có thể nói lời của con người mà hóa giải nhân tình.

Lúc bấy giờ đức Như Lai mới hỏi rằng:

– Thân trước của con đã tạo nghiệp gì mà phải thọ thân nầy trong ác thú vậy?

Con cá đáp rằng:

– Con nhờ chút phước lực sanh vào gia đình Bà La Môn giàu có. Người ấy chính là thân con. Con ỷ vào dòng dõi cho nên khuynh loát nhân luân, ỷ vào của cải mà khinh khi kinh Pháp, đem tâm khinh mạn chư Phật, dùng lời cực ác để nhục mạ chúng tăng, ví chúng tăng như các loài lạc đà, voi, ngựa. Do ác nghiệp nầy mà thọ thân cá, nhưng nhờ một chút thiện duyên con sanh gặp thời Phật còn tại thế, còn thấy được sự giáo hóa của Phật, còn được nghe lời dạy của ngài, do đó mà xin sám hối tội nghiệp đời trước đã làm.

Như Lai tùy theo căn cơ nhiếp hóa, từ đó khai đạo. Nhờ nghe Pháp, con cá liền thác. Với phước lực đó sanh lên Thiên cung và tự biết thân nầy do duyên gì mà sanh ra. Liền biết túc mệnh của mình và niệm báo ân của Phật đã cùng với chư Thiên nguyện dứt những việc ác. Lễ Phật xong, đi nhiễu bên tay phải rồi đem hương hoa cùng với vật quý cõi trời dùng để cúng dường.

Nhân cơ hội nầy, đức Phật thuyết Diệu Pháp cho ngư dân, họ nghe xong liền tỏ ngộ, chân thành lễ sám, đốt luới và thuyền, quy y thọ Pháp. Nghe Phật chỉ dạy, họ phát tâm mặc áo hoại sắc xa rời trần cấutu hành chứng được quả Thánh.

Phía đông bắc, nơi độ cho những ngư dân đi hơn 100 dặm đến cổ thành phía tây. Tại đây có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây cao hơn 100 mét. Đây là nơi ngày xưa đức Phật thuyết pháp sáu tháng để độ cho trời người. Từ phía bắc đi hơn 145 bước, có một Bảo Tháp nhỏ. Chính nơi đây ngày xưa đức Như Lai vì các vị Tỳ Kheo mà chế giới. Tiếp đến phía tây chẳng xa bao nhiêu lại có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như LaiNhư Lai ngày xưa ở nơi đây, những người trong ấp đem hương hoa đèn quả đến cúng dường không diệt. Từ phía tây bắc nầy đi hơn 1450 dặm, vào động của núi thuộc nước Ni Ba La.

5) Nước Ni Ba La

Nước Ni Ba La chu vi hơn 4000 dặm, nằm trong núi Tuyết. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Núi sông giao nhau, nên lúa thóc và hoa quả rất nhiều. Nơi đây sản xuất đồng đỏ, trâu đuôi dài, và chim chóc. Tiền dùng trao đổi bằng đồng đỏ. Khí hậu lạnh có gió nhiều và phong tục bí hiểm. Tánh người cang cường. Niềm tin hời hợt. Không học tập mà cũng chẳng có nghề nghiệp gì, hình tướng khó coi, tà chánh đều tin. Chùa Viện và đền thờ liên tục gần nhau, hơn 2000 tăng sĩ tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu thừa. Số người theo ngoại đạo bao nhiêu thì không biết. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợidòng dõi Phiêu Chiêm Ba. Chí học thanh cao thuần tín Phật PhápGần đây có Vua tên là Ô Luân Phạp Ma là bậc thạc học thông minh, tự soạn ra Thanh Minh Luận. Vua là người trọng học vấn, cung kính đạo đức và những gì mới lạ.

Đô thành phía đông nam có một cái hồ rất nhỏ. Người ta dùng nước nầy để dập lửa cháy. Từ đây lại đi về nước Tỳ Xá Ly, phía nam đi qua sông Hằng, đến nước Ma Kiệt Đà.

Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển bảy

Bạn cũng có thể thích
Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.