ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ: Nhà văn Nguyễn Phước Thị Liên pháp danh Diệu Hạnh, hiện là Đoàn trưởng đoàn Nữ Phật tử thuộc Gia Đình Phật Tử Tam Bảo-Hà Tiên. Chị xuất thân là nhà giáo, tham gia hoạt động văn học từ thập niên 1990, đến nay tác phẩm của Chị đã xuất hiện trên các báo và tạp chí như : Văn, Giáo Dục& Thời Đại, Áo Trắng, Phụ Nữ, Người Lao Động, Tuổi Trẻ Cuối Tuấn, Chiêu Anh Các, Nhớ Huế, Văn Hóa Phật Giáo, Sông Hương.
Ngoài ra, tác phẩm của Chị còn được xuất bản thành sách, bao gồm:
* Sách in riêng : Hành Khất Phu Nhân (1994); Thời Nõn Giá (2004); Bến Sông (2012)
* Sánh in chung:Truyện ngắn chọn lọc (tỉnh Kiên Giang); Tuổi Thơ Bầm Dập; Mắt Bão (1998); Xa Xứ (2001)
Trước thềm năm mới Mậu Tuất-2018, Ban biên tập có nhận được tập ký & truyện “Đường Về” của Nhà văn Nguyễn Phước Thị Liên gởi tặng. Nhận thấy nội dung tập truyện có phần gần gũi với tâm tư tình cảm của độc giả trang web gdptkiengiang.vn, trong đó đại đa số là đoàn viên Gia Đình Phật Tử, chúng tôi đã xin phép tác giả đăng lại toàn bộ ba mươi mốt truyện & ký trong “Đường Về” để bạn đọc thưởng thức.
Sau đây là bài đầu tiên có nhan đề :“Kỷ Niệm Về Cố Hòa Thượng Huyền Vi”.
* * *
Thuở ấy ở Hà Tiên còn chân quê lắm. Chợ chồm hổm nhóm ngay giữa lộ, từ 4 giờ sáng đến 10-11 giờ là tan. Ban đêm ông nhà đèn cho sáng từ 6 giờ chiều đến 9 giờ tối. Sáng hôm sau chỉ lóe lên một hai tiếng rồi thôi. Trường học chỉ mở đến lớp đệ lục (lớp 7) và được gọi là “Lớp Trung học Hà Tiên” vì trường trung học chưa được cất.
Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi, khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân Hòn Kim Dự chờ nước rút bắt nghêu sò. Con gái hiền lành hơn, thường hay theo cô dì hay ông bà vô chùa Tam Bảo. Ở đây có sân rộng, bảy tám đứa mặc sức chơi rượt bắt, nhảy dây, lò cò, có khi cùng nhau hát nghêu ngao. Chơi mệt, chúng vào nhà khói “nhõng nhẽo” để được người lớn đưa hết mấy mâm quả đã cúng xong.
Tôi nhớ rất rõ, lúc ấy là năm 1957, tôi mới 15 tuổi, học lớp đệ lục là lớp học lớn nhất của Hà Tiên lúc bấy giờ. Lớp tôi có 10 nữ sinh. Ngoài giờ học, nhóm chúng tôi không đứa nào phải bận tâm làm việc nhà giúp cha mẹ, có lẽ cha mẹ ưu tiên dành thời gian cho con gái ăn học, vì thế chúng tôi cứ rủ nhau vô chùa chơi nhởi. Tôi cũng nhớ lúc này có nhiều cô chú và các thầy giáo của chúng tôi vô chùa làm Phật sự.
Một hôm, tự nhiên chúng tôi thấy không khí trong chùa khác hẳn mọi khi, ai nấy vô ra có vẻ nghiêm trọng, lại còn bàn tán xôn xao… Chuyện của người lớn, bọn trẻ nào dám nghĩ suy.
Thế rồi hôm sau, có hai ông sư nào lạ hoắc đang ở trong chùa làm chúng tôi cứ đứng thập thò bên bậu cửa. Một bà Phật tử bước ra, nói:
– Mấy đứa vô chào thầy đi con.
Tôi còn đang rụt cổ thì một sư đến xoa đầu từng đứa, hỏi :
– Mấy con có thường vô chùa không ? Ngày mai vô chùa nữa không? Vô nữa hả, vậy tốt quá ha!
Trước khi chúng tôi chào sư ra về, sư còn nói thêm:
– Mấy con có thích múa hát không? Vô chùa hát, vui lắm nhen.
Chúng tôi nói với nhau: “Ngày mai tụi mình vô sớm sớm, coi chừng ổng cho tụi mình hát”. Từ đó, chúng tôi biết tên hai vị sư này là Thầy Thích Thanh Từ và Thầy Thích Huyền Vi. Thầy Huyền Vi nói chuyện cởi mở, vui vẻ, không lộ vẻ nghiêm trang như Thầy Thanh Từ. Và cũng từ đó, chúng tôi “nhí nhảnh” hơn, nghĩa là biết múa hát nhiều bài ca Phật giáo như bài Dòng A-Nô-Ma, Sen Trắng, Trầm Hương Đốt… Đặc biệt, khi múa bài Mừng Thầy Đến , thầy cho chúng tôi cầm bông.
Thầy Huyền Vi dạy hát mà không có đàn. Thầy hát câu đầu, chúng tôi hát theo, chừng thấy đúng nhịp điệu, thầy hát câu tiếp, cứ thế cho đến hết bài. Còn múa thì cũng vậy, chúng tôi là con nít nhà quê, cả đời không biết múa ca những bài hát Phật mà bây giờ… thích quá nên múa đại, múa theo thầy. Thầy đứng chính giữa, hình dạng mập tròn, chúng tôi cầm tay nhau đứng xung quanh thầy như cái bánh có cục nhưn. Tôi nghĩ vậy mà cười. Và khi tập, cố làm theo thầy. Thầy đưa tay lên, mình đưa. Thầy chuyển mình đưa tay xuống hoặc đưa chân đá một cái, mình đá… Bảy tám đứa đều làm y chang như vậy cho đến hết bài và thuộc bài. Có nhiều đứa mình mẩy cứng khừ, thầy sửa hoài không được nhưng thầy không chê mà cứ khen giỏi và cũng có đứa cà nanh. Khi nào cũng vậy, hễ múa xong là thầy phát kẹo, phát bánh… Vui ơi là vui.
Lại có lần, thầy đưa chúng tôi đi tham quan quanh chợ Hà Tiên. Khi đến chỗ cây dừa ba ngọn (**) vừa lúc mặt trời xế bóng, chúng tôi không nhìn cây lạ, mà vội túm lấy áo thầy, chỉ trỏ cái nhà xác trong khu bệnh viện gần đó. Thầy cười, nói: “Có thầy ở đây, làm sao có ma được”.
Lúc đó, thầy Huyền Vi dạy múa hát, thầy Thanh Từ dạy giáo lý và kể chuyện sự tích Đức Phật và những mẩu chuyện về đạo Phật, hai thầy thay nhau dạy dỗ chúng tôi từng li từng tí. Vào ngày rằm, mồng một, có khi ban tối, thầy giảng pháp cho người lớn. Hai thầy lưu lại Hà Tiên có đến ba tháng. Bữa hai thầy từ giã chúng tôi, đứa nào cũng khóc. Vô chùa không thấy thầy cũng khóc rồi biên thơ thăm thầy, gửi “Nhà dây thép”. Thầy trả lời cho từng đứa, đều đặn, động viên chúng tôi đi chùa, chăm ngoan và tinh tấn. Thầy hứa sẽ trở lại, chúng tôi mừng quá, đếm từng ngày một. Càng chờ càng thấy lâu và để bớt nhớ thầy, chúng tôi cứ đến chùa múa hát những bài thầy đã dạy, nhuần nhuyễn lúc nào không hay. Khi trở lại, thầy xem mà ngạc nhiên và rất vui, liền cho chúng tôi một đêm trình diễn văn nghệ trong dịp lễ Phật đản, phục vụ bà con cô bác Phật tử Hà Tiên. Chúng tôi được người lớn hoan nghênh nhiệt liệt.
Lần nay hai thầy chỉ lưu lại Hà Tiên một tháng nhưng số Phật tử nhóc con đến chùa đông gấp bội, có cả các em học lớp nhất (lớp năm) và lớp đệ thất (lớp sáu). Lúc hai thầy chưa sửa soạn ra về mà chúng tôi đã buồn rồi. Đứa nào đứa nấy tranh nhau đưa Lưu bút ngày xanh cho hai thầy viết mà không biết như vậy là vô phép. Vì rằng thầy là Sư, là người xuất gia, là bậc cao minh. Mình là con nít, sao dám đưa thầy viết chung trong quyển có bài của mấy nhóc tì cóc ké! Nhưng cảm động quá chừng, hai thầy vẫn thản nhiên, vui vẻ viết vào.. Ngày nay quyển lưu bút này và những hình ảnh khác của hai thầy đã không còn, mặc dù tôi quí nó lắm, đã cất riêng trong tủ. Chẳng qua vì giặc Pôn Pốt, tôi cũng như bao người dân Hà Tiên phải chạy sơ tán. Ôi, tiếc làm sao!
Nhiều người nói thầy Thanh Từ có trí nhớ tuyệt vời, gặp lại ai sau mấy mươi năm đổi dời xa cách, thầy vẫn nhớ, hỏi thăm chuyện cũ chuyện xưa như chuyện mới hôm qua. Thầy Huyền Vi cũng có trí nhớ siêu đẳng và nắm bắt tình hình nhanh nhạy. Lần đầu tiên gặp thầy chỉ một lần thầy hỏi tên từng đứa chúng tôi vậy mà nhiều năm sau khi gặp lại, thầy nhìn mặt gọi tên không sai một ai, còn nhớ hoàn cảnh của ai ra sao hoặc ai là con cháu của ai trong chùa. Sợ nhất, khi tập múa, dầu thầy không kịp nhìn, thầy cũng biết có đứa đang “sơ sẩy”, gọi đúng tên đứa đó. Bởi vậy, để không “bị quê”, chúng tôi phải hết sức cố gắng.
Tuổi 15 – 16 là tuổi đẹp nhất của đời người, cái tuổi bản lề giữa trẻ con – người lớn. Chúng tôi được duyên lành tiếp xúc hai vị thầy đức độ Thanh Từ và Huyền Vi, tuy chỉ ba bốn tháng nhưng đã gây ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn, tâm linh và đời sống của chúng tôi. Nhìn lại đến nay, hầu hết đứa nào trong chúng tôi cũng sống tốt, gia đình ổn định, con cháu hiếu thảo chăm ngoan. Trong nhóm có bạn Đường Minh Phương nay là đại đức Thích Kiến Nguyệt, một vị sư rất có uy tín trong việc xây dựng các thiền viện ở nước ta, đó là : Trúc Lâm Phượng Hoàng – Đà Lạt; Trúc Lâm Yên Tử – Quảng Ninh; Trúc Lâm Tây Thiên – Vĩnh Phúc; Trúc Lâm Hàm Rồng – Thanh Hóa, v.v…
Ngày nay, thầy Huyền Vi đã liễu đạo nơi chân trời Tây. Nhớ về Hòa thượng quá cố, chúng tôi không thể không nhớ người thầy biên đạo múa của “Đội ca múa trẻ” dưới mái Gia Đình Phật Tử Tam Bảo – Hà Tiên, một ấn tượng sâu sắc để sau này mỗi lần nghe lại những bài hát Phật, tôi xúc động như ngày còn nhỏ. Hình ảnh những đứa học trò chân quê vô chùa đón thầy trở lại, vui đến rơi nước mắt, đó là kỷ niệm suốt đời tôi không thể nào quên.
Tôi xin gửi vào đây bức ảnh chân dung hai thầy thời đó để tri ân và chia sẻ với quý Phật tử gần xa niềm vinh dự của Hà Tiên thuở ban đầu xây dựng Gia Đình Phật Tử có hai thầy chăm lo vun quén vườn ươm.
Chú thích:
(*) Viết theo lời kể của Phật tử Chân An Tịnh
(**) Ở Hà Tiên trước đây từng có cây dừa 3 ngọn, 7 ngọn và 4 ngọn. Khách thập phương thường đến xem. Nay không còn cây nào