Đại Đường Tây Vức Ký (kỳ 7)

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
                                                                             Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 7)
QUYỂN THỨ BA
(8 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng TrìSa Môn Biện Cơ soạn

1. Nước Ô Trượng Na
2. Nước Bát Lộ La
3. Nước Đản Hựu Thỉ La
4. Nước Tân Ha Bổ La
5. Nước Ô Sách Thi
6. Nước Ca Thấp Di La.
7. Nước Bán Nô Sai
8. Nước Yết Na Phược Bổ La

1. Nước Ô Trượng Na

Nước Ô Trượng Na, chu vi năm ngàn dặm, núi non tiếp xúc với sông ngòi liên tục với nhau, tạo thành bình nguyên, cấy lúa trồng trọt nhưng đất đai không phì nhiêu. Nho rất nhiều nhưng mía ít. Thổ sản là nghệ. Có nhiều khoáng sản như: vàng bạc. Cây trái hoa quả rất nhiều. Gió mưa nóng lạnh điều hoà cho nên tánh tình phong tục của con người ở đó cũng thuần hậu, thích học hỏi nhưng chẳng tha thiết. Lấy chú thuật làm nghề nghiệp. Y phục đa phần làm bằng lông cừu trắng, nhưng không nhiều.

Ngôn ngữ tuy khác nhưng đại để giống tiếng Ấn Độ. Chữ viết lễ nghĩa, phép tắc đều lấy Phật Pháp tôn sùng, tu theo Giáo Lý Đại Thừa. Có sông Lai Tô Bà Phạt Tốt Đổ. Ngày xưa có một ngàn bốn trăm ngôi Già Lam, hầu hết bị hoang phế. Trước đây, Tăng tín đồ khoảng 18 ngàn người, bây giờ giảm thiểu rất nhiều. Họ tu theo Đại Thừa, lấy Thiền định làm sự nghiệp. Thích tụng kinh văn, nhưng ít thấu hiểu nghĩa sâu. Giới hạnh tinh khiết, đặc biệt ưa chú thuật. Luật nghi truyền dạy gồm có năm bộ:

1. Pháp Mật Bộ
2. Hoá Địa Bộ
3. Ẩm Quang Bộ
4. Nhất Thiết Hữu Bộ
5. Đại Chúng Bộ.

Đền thờ có hơn mười ngôi. Ngoại đạo ở hổn tạp. Cách thành nầy bốn dặm rưỡi, nhà Vua còn trị vì một thành khác tên là Tào Yết Phấn. Chu vi của thành mười sáu dặm bảy. Có người cư ngụ nơi đây. Từ phía thành Tào Yết Phấn cách phía đông bốn dặm rưỡi, có một Bảo Tháp rất thiêng liêng, ghi lại nơi Phật ngày xưa là tiên nhân tu nhẫn nhục. Nơi đây là nơi mà thân thể Vua Ca Lợi bị tổn hại.

Phía Đông Bắc thành Tào Yết Phấn đi hai trăm năm mươi sáu dặm thì vào núi lớn đến dòng suối Rồng A Ba La La. Dòng suối nầy là thượng nguồn của sông Tô Bà Phạt Tốt Đổ, chảy qua phía Tây Nam. Tuy mùa xuân mùa hạ nhưng vẫn còn tuyết về ban đêm. Tuyết rơi lóng lánh chiếu sáng. Thời Phật Ca Diếp, con rồng nầy sanh làm người, tên là Cạnh Thị, chuyên dùng chú thuật để ngăn Ác Long không cho làm mưa làm gió. Đời sống người dân trong nước được phồn thịnh, ai ai cũng cảm ân nhiều.

Thuế nhà cửa chỉ là mười đấu thóc, nhưng càng ngày càng nhiều khó khăn, cho nên Cạnh Thị mới giận dữ mà nguyện trừ khử Độc Long, vì nó đã làm thương tổn đến mùa màng gia súc. Khi chết đi, nó biến thành con rồng ở Hồ nầy. Nước suối chảy màu trắng, làm tổn hại đến đất đai. Khi đức Thích Ca Như Lai còn tại thế vì lòng bi mẫn thương người ở nước nầy, nên giáng sanh nơi đây. Để hoá độ rồng nầy, thần Chấp Kim Cang quơ tích trượng Long Vương chấn động nên vội quy y, nghe Phật thuyết pháp, khởi tâm thanh tịnh, y giáo pháp tin hiểu. Như Lai bắt nó không được làm tổn hại đến dân chúng. Rồng thưa:

Phàm đã có đồ ăn, lại lấy ruộng và người. Nay vâng theo Thánh giáo nhưng sợ khó có đủ đồ chu cấp cho nên cứ 12 năm xin thâu đồ ăn một lần. Như Lai cũng còn thương cho nên hứa khả cho. Vì vậy cho nên xưa nay, cứ 12 năm là gặp một tai nạn tại dòng nước trắng nầy.

Từ phía Tây Nam suối rồng A Ba La La cách ba mươi dặm, trên bờ suối nước chảy phía bắc có một tảng đá lớn. Nơi đây có ghi lại dấu chân đức Phật. Do phước đức của mỗi người mà thấy bàn chân kia dài hay ngắn khác nhau. Đây là nơi Như Lai đã hàng phục con rồng kia rồi mà lưu lại dấu tích ấy. Người đời sau, thường hay góp nhặt đá ấy để làm nhà, xa gần đều mang hương hoa đến để cúng dường. Cách đây hơn 30 dặm có miếng đá để giặt y Như Lai. Bóng Ca Sa của Như Lai vẫn còn khắc ghi lại nơi đây. Phía Nam thành Tào Yết Phân hơn 400 dặm, đến núi Ê La. Nước phía tây chảy ngược lại phía đông.

Có nhiều hoa trái khác nhau bị cuốn trôi vào đấy, nên rất nguy hiểm. Hoặc nghe được những âm thanh tiếng nói, hoặc nghe được tiếng dội của âm nhạc từ nơi những hòn đá cao như thác mà thành. Hai bên bờ có nhiều hang động. Đây là nơi Như Lai ngày xưa đã nghe được nửa bài kệ tụng mà xả thân mệnh. Từ phía Nam thành Tào Yết Phân đi hơn hai trăm dặm, có một ngôi chùa Ma Ha Phạt Na ở phía núi lớn. Nơi nầy ngày xưa Như Lai tu khổ hạnh, có tên là Vua Tát Phược Đạt của nước Tỵ Thích Khí đi đến đây, gặp người Bà La Môn nghèo từ phương xa đến xin ăn. Vua đã mất ngôi nên không có gì để cho, Vua bèn ra lịnh giết Vua đi để lãnh tiền thưởng.

Ở phía Tây Bắc dưới chân núi Ma Ha Phạt Na, có một Già Lam và cách hơn 34 dặm, lại có một Già Lam nữa cùng một Bảo Tháp cao hơn 100 thước. Từ phía nầy, có một hòn đá lớn trên đó có ghi lại dấu tích bàn chân của Như Lai, mà ngày xưa Phật đã ở tại hòn đá nầy, Ngài đã phóng hào quang chiếu đến ngôi chùa Ma Ha Phạt Na, mà vì mọi người chư thiên thuyết kinh Bổn Sanh. Dưới chân Bảo Tháp có một hòn đá, sắc màu vàng trắng, có chỗ trơn láng, đây là nơi Như Lai ngày trước tu khổ hạnh. Vì nghe Chánh Pháp mà nơi đây đã lấy xương cốt mình để chép kinh.

Phía tây ngôi chùa Ma Thâu, hơn 67 dặm, có một Bảo Tháp. Bảo Tháp nầy do Vua A Dục xây dựng. Nơi đây chính là nơi đức Phật tu khổ hạnh hiệu là Tỳ Ca Vương. Vì cầu quả vị Phật, mà đã tự sát bố thí thân cho chim.

Dai Duong Tay Vuc Ky Ky 7 A

Từ phía Tây Bắc của Đại Tháp, đi hơn hai trăm dặm vào nước Sắc Ni La Phiệt, sau đó đến nước Tát Ai Sát Địa. Lại có một Tăng Già Lam cũng có Bảo Tháp cao 80 thước. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã làm một vị Đế Thích, gặp lúc đói khát tật bịnh hoành hành. Y dược không phương cứu chữa, nhiều người chết chóc. Đế Thích sầu lo muốn cứu giúp, mới biến hình thành một con trăn lớn, nằm nơi hang đá và sông rạch. Người ta nghe đến giết con trăn để lấy thịt mà sống trừ bệnh tật đỡ đói khát.

Cách từ phía nầy không xa có một bảo tháp Tô Ma, nơi đây Như Lai ngày xưa đã làm Đế Thích lúc bệnh tật thương cảm các loài hàm thức mà biến thân thành một con rắn. Phàm ai ăn được thịt rắn thì đỡ đói khát.

Phía Bắc của sông Sắc Ni La Phiệt, có một hòn đá bên cạnh Bảo Tháp, mà những ai bệnh hoạn đến cầu xin đều được thưyên giảm. Như Lai ngày xưa đã làm con chim Khổng Tước Vương (con công).

Từ đây đến một nơi gọi là Tìm Cầu Nước Uống. Khổng Tước Vương đã đến bên bờ để tìm nước nơi suối chảy. Bây giờ nơi đây đã trở thành một cái ao, ai uống nước nầy vào tật bịnh tiêu trừ. Trên hòn đá vẫn còn dấu chân của Khổng Tước lưu lại.

Từ phía Tây Nam thành Tào Yết Phân đi hơn 67 dặm, có một con sông lớn và phía Đông có một Bảo Tháp cao hơn 60 thước, do vua trước đã kiến lập. Ngày xưa tương truyền rằng sau khi Như Lai diệt độ, ngài bảo đại chúng rằng: Sau khi ta nhập Niết Bàn, Xá Lợi của ta do Vua nước Ô Trượng Na phân chia. Nếu các vương tướng muốn có được, phải theo sự phân chia của vị vua nầy vậy. Lúc bấy giờ trời người và đại chúng đều tôn trọng tuyên dương và nguyện làm giống như lời của Như Lai. Sau khi phân chia rồi mang về nước họ. Tuỳ theo sự tôn sùng mà kiến lập nên Bảo Tháp.

Phía bờ sông nầy có một hòn đá lớn giống như con voi. Ngày xưa nhà vua đã cỡi tượng trắng nầy mà rước Xá Lợi về đến nơi đất nầy, con voi cúi đầu xuống. Do nguyên nhân nầy mà biến thành một hòn đá và ngay chỗ nầy đã xây dựng lên một Bảo Tháp. Phía Tây của thành Tào Yết Phân 50 dặm qua con sông lớn, đến Lô Ê Đản Ca, cũng có một bảo tháp, cao hơn 50 thước do vua A Dục kiến lập nên. Chính nơi đây đức Như Lai đã tu khổ hạnh vì đại quốc vương mà nói rằng:

– Ta dùng lòng từ, hãy lấy huyết thân ta để cứu cho năm con Dược Xoa.

Phía Đông Bắc thành Tào Yết Phân, cách 30 dặm hơn, đến Yết Bộ Đa Thạch, nơi đây có một Bảo Tháp cao 40 thước. Tại nơi đây xưa kia đức Như Lai đã vì trời người, thuyết Pháp khai đạo. Khi Như Lai đi qua, từ dưới đất nầy Bảo Tháp tự nhiên mọc lên. Do đó mọi người tôn kính mà đem hương hoa để cúng dường.

Phía Tây Bảo Tháp bằng đá kia, qua sông lớn cách 34 dặm, đến một tinh xá. Ở giữa tinh xá có thờ tượng A Phiệt Lô Kỳ Đệ Thất Phạt La Bồ Tát (Avalokitesvarsa Bồ tát Quan Thế Âm), rất linh thiêng và chiêu cảm. Tăng tục đều cúng dường không ngơi nghỉ. Phía Tây Bắc tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cách 150 dặm đến núi Lãm Sắc Lô. Trên đỉnh núi cao kia có hồ rồng chu vi hơn 30 dặm. Sóng lớn giao thoa lưu xuất. Ngày xưa, Vua Tỳ Lô Thích Ca chinh phạt dòng họ Thích, có bốn người trong thân tộc phân thân để bay đi. Có một người trốn thoát đi đến giữa đường bị người khác bay đến chận lại.

Lúc bấy giờ có một người bay qua bay lại đùa giỡn phía trước, rồi bay lên, bay xuống trên bờ hồ. Vì đi quá xa và đến nước khác rồi nên Người dòng họ Thích không biết đường và thấy vậy chẳng biết làm sao nên vội vã núp dưới tàng cây. Lúc đó, có một thiếu nữ con Vua Rồng du ngoạn gần bờ hồ, thấy người dòng họ Thích sợ hãi lo lắng, liền biến thành người nữ, để người dòng họ Thích không sợ hãi nữa và nói rằng tôi đang tìm người thân, và nghi rằng đang ở nơi nầy nên đến đây. Cha mẹ tôi dặn phải đề phòng cẩn thận không được sai trái, nhưng tôi không muốn nghe lời.

Người dòng họ Thích nói:

– Núi rừng mênh mông mà hôm nay đến hồ nầy lại gặp Long Nữ. Tôi vì Thánh Tộc Lưu Ly mà đi tị nạn, mới trôi nổi đến đây. Nay gặp rồng nữa.

Long Nữ nói:

– Người và Vật không thể trao đổi với nhau bằng lời được.

Người họ Thích nói:

– Nghe chỉ một lời là thấy rõ nơi tâm rồi.

Long Nữ nói:

– Vừa nghe đã hiểu

Người dòng họ Thích phát thệ rằng:

– Tôi xin đem năng lực phước đức có được sang qua cho Long Nữ để biến thành thân người.

Nhờ phước lực nầy mà bỗng nhiên Rồng bèn biến thành người. Được thân người, Rồng rất vui mừng mà tạ ơn rồi nói:

Lâu nay, tôi bị trầm luân trong cõi ác, hôm nay thật là diễm phúc được phước lực gia tăng, thân đã đổi thay, ân nầy xin đáp đền, nghĩa nầy về sau sẽ hậu tạ. Tâm nguyện đáp đền bằng sự giao ước. Ta thưa với cha mẹ của ta về sau dùng lễ vật để trả ơn. Sau đó Long Nữ trở về ao thưa với cha mẹ rằng:

Con đi chơi gặp một người thuộc dòng họ Thích có nhiều Phước Lực đã cảm con thành Người. Hai chúng con đã thương nhau, con xin thưa thật.

Long Vương lòng rất vui, vì giữa mình và Thánh tộc có sự liên kết. Long Nữ thưa tiếp:

– Xin cha cho con được ra khỏi ao để tạ lễ người dòng họ Thích

Gặp người họ Thích nói rằng:

– Xin ngài hãy vì chúng sanh khác loại, chớ đừng vì tôn ty sang hèn, hãy đến nhà tôi mà nhận sự cảm tạ của cha mẹ tôi. Người dòng họ Thích chấp thuận lời mời xuống Long cung, và Long Vương vui mừng đích thân đến thi lễ. Người dòng họ Thích thấy hình dáng rồng không thích lắm cho nên muốn kiếu từ.

Long Vương giữ lại nói:

– Gặp gỡ chưa bao lâu, mà sao vội về vậy. Tôi báo cho thần dân biết điều nầy.

Người dòng họ Thích cảm tạ thưa:

– Thôi chẳng cần.

Long Vương lấy bảo kiếm để trên hộp bao bọc bên ngoài bằng lông trắng và nói với Người họ Thích rằng:

– Hãy đem bảo kiếm nầy về cống hiến cho Vua kia,, Bảo Kiếm sẽ tự hại Vua đó

Bởi vì nước kia không tốt lắm, người dòng họ Thích nhận lời chỉ bảo của Long Vương, cho nên mang bảo kiếm dâng cho Vua nước Ô Trượng Na. Người dòng họ Thích giấu kiếm trong tay áo đi thích khách. Sau đó những vệ binh cận thần hô lên có loạn có loạn. Người dòng họ Thích quơ kiếm nói rằng:

– Tôi có kiếm thần, do Long Vương trao.

Sau khi tru di rồi, sẽ tạm không có Vua, hoặc phải suy tôn người họ Cù lên vương vị. Đây là duyên cớ để cải đổi nền hành chánh. Rồi thì mọi người bị động trong vấn đề nầy, liền báo mệnh cho Long cung, đón Long Nữ về Vương cung. Túc nghiệp của Long Nữ chưa hết, vẫn còn dư báo làm Rồng, cho nên thỉnh thoảng Long Nữ vẫn hiện hình là một con rồng chín đầu. Người dòng họ Thích sợ hãi, nên âm thầm lấy dao cắt đi. Long Nữ hoảng sợ nói rằng:

-Điều nầy không lợi về sau. Khi mà mạng sống của tôi bị tổn thương, thì con cái của dòng họ sẽ bị khổ về bệnh đau đầu, vì thế con cháu họ Thích thường hay bị bệnh ấy, nhưng bệnh ấy không kéo dài.

Dòng họ Thích chưa có người kế vị cho nên lập Ôn Đán La Tê Na làm Vua. Sau khi nhà Vua tức vị, Thân mẫu qua đời, an táng xong. Đức Phật cho Rồng A Bà La La hoàn hình lại như cũ. Từ trên không hạ xuống cung đình. Lúc ấy nhà Vua đang đi săn. Như Lai vì mẹ mà lược thuyết pháp yếu. Gặp Thánh nghe Pháp được hiểu rõ ràng. Như Lai lại bảo rằng:

– Con của ngươi thuộc về dòng tộc Thích. Nay ở tại đâu?

Người mẹ đáp:

– Nó đi ra ngoài từ sáng sớm.

Như Lai cùng đại chúng muốn tìm hiểu nguyên nhân nầy.

Vương Mẫu đáp:

– Con tuy được Phước Đức sanh vào trong Thánh Tộc nầy. Như Lai vì lòng thương tưởng mà giáng lâm. Mẹ con trở lại nguyện nầy luôn chờ đợi và luôn giữ.

Thế Tôn đáp:

– Ngươi cũng thuộc dòng tộc của ta, hãy nghe mà tin nhận. Không phải chỉ người thân mới phát tâm vì ta mà làm vậy. Lại nói thêm rằng:

Như Lai từ đây mà đi đến thành Câu Thi Na và nhập Niết Bàn trong rừng Ta La Song Thọ. Hãy thâu lấy Xá Lợi để mà cúng dường. Như Lai cùng chư Đại Chúng nương hư không mà đi. Nhà Vua đang săn bắn xa xa thấy ánh sáng phát ra tại cung điện của mình, nghi là bị cháy nên bỏ đi săn mà về. Khi ấy gặp được thân mẫu mừng mà hỏi rằng. Khi con đi khỏi có chuyện gì linh cảm xảy ra, mà có thể làm cho từ mẫu trở lại hình dáng như ngày xưa?

Người mẹ đáp:

– Sau khi con đi rồi, Như Lai đến đây, mẹ nghe Phật thuyết pháp xong bèn trở lại như cũ. Như Lai từ đây sẽ đến thành Câu Thi La, ở dưới cây Ta La, thâu thần nhập Niết Bàn. Ngài nhắn con rằng hãy đến đó để phân chia Xá Lợi. Khi Vua nghe xong rồi cảm động đau đớn, mà tỉnh ngộ ra. Sau đó cho xa giá đến rừng Ta La Song Thọ thì Phật đã vào Niết Bàn. Lúc bấy giờ Vua các nước lân bang rất trân quý Xá Lợi cho nên không muốn chia. Ngay lúc ấy trời người cùng đại chúng tuyên lại ý Phật. Các vị nghe rồi mới lãnh thọ.

Phía đông bắc thành Tào Yết Phân là núi Thâu, qua khỏi sơn cốc ấy đi ngược lên là sông Tín Độ. Đường đi rất nguy hiểm vì núi non chập chùng, hoặc giây leo chằng chịt, hoặc đá dựng. Đường cầu treo lắc lẽo gian nan khó mà an toàn. Đi hơn ngàn dặm đến sông Đạt Lệ La, tức thuộc kinh đô cũ của nước Ô Trượng Na. Nơi đây có sản xuất nhiều vàng và nghệ. Có một Già Lam lớn tại Đạt Lệ, có khắc một bức tượng gỗ của Bồ Tát Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc). Ánh sắc vàng chói linh hiển vô cùng cao hơn 100 thước.

Tượng nầy do vị A La Hán tên là Mạc Điền Đệ Ca tạo nên. Vị A La Hán nầy đã dùng thần lực để biến thành người thợ tạo tượng. Từ cõi trời Đâu Suất xuống nên có thân tướng rất trang nghiêm. Cho nên hình dáng toàn thân bức tượng rất ư đẹp đẽ. Giáo Pháp lưu chuyển từ đây về hướng đông. Đến hướng đông thì gặp đỉnh núi Thâu, qua khỏi các hang động, ngược lên bên trên là sông Tín Độ. Đường đi nơi đây rất hiểm trở, qua năm trăm dặm hơn thì đến nước Bát Lộ La.

Dai Duong Tay Vuc Ky Ky 7 B2) Nước Bát Lộ La

Nước Bát Lộ La, chu vi hơn bốn ngàn dặm nằm ở giữa núi Tuyết. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Có nhiều lúa mạch, đậu và vàng bạc. Quốc gia nầy là nước tương đối giàu có, tuy nhiên ở vùng lạnh cho nên tâm tánh con người hơi hung bạo bạc nhược. Nhơn nghĩa không có và những lễ lộc cũng thế. Hình dáng nhỏ nhắn, y phục đa phần dùng bằng lông. Chữ nghĩa đại khái giống như Ấn Độ. Ngôn ngữ khác với những nước khác. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng tín đồ, học hành không chuyên cần, giới hạnh nhiều phóng túng.

Tự đây trở lại thành Ô Dịch Ca Hán Trà, thì phía nam phải qua sông Tín Độ (Sông Sindhư). Sông nầy rộng 31 dặm, chảy về hướng nam. Nước trong vắt, lóng lánh màu bạc và chảy xiết. Rồng độc thú dữ nằm khuất trong hang động. Nếu mang vật quý cùng hoa quả cũng như Xá Lợi đi ngang sông thì thuyền thường hay bị gió thổi lật chìm. Qua sông đến nước Đản Hựu Thủy La, nằm ở phía Bắc xứ Ấn Độ.

3) Nước Đản Hựu Thủy La

Nước Đản Hựu Thủy La, chu vi hơn hai ngàn dặm. Kinh đô hơn mười dặm. Dân tộc nầy tuy hào hiệp nhưng dòng dõi nhà Vua đã tuyệt tự cho nên trực thuộc nước Ca Tất Thí, gần gũi và phụ thuộc nước Ca Thấp Di La. Đất đai màu mỡ, nhà cửa tốt đẹp. Có suối có ao nên hoa trái xinh tươi. Khí hậu ôn hoà, phong tục đơn giản, sùng kính Tam Bảo. Già Lam tuy nhiều nhưng đa phần bị hoang phế. Tăng Tín Đồ cũng ít nhưng theo Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Phía Tây Bắc kinh đô hơn 70 dặm, có ao Y La Bát Đản La Long Vương. (Erapattha) chu vi hơn 100 dặm, nước của hồ nầy trong vắt.

Hoa sen có nhiều màu, đẹp đẽ dị thường. Con rồng ở đây, ngày xưa có chuyện kể rằng thời đức Phật Ca Diếp Ba. Có vị Tỳ kheo làm hại cây Y La Bát La cho nên bây giờ bị thổ thần yêu cầu kéo mây đến làm mưa. Khi đó vị Sa Môn cùng đến hồ nầy, khảy móng tay hỏi, theo nguyện mà có kết quả. Hồ rồng nầy, phía đông nam đi 30 dặm, vào hai bên núi lại có Bảo Tháp. Bảo Tháp do Vua Asoka tạo nên, cao hơn 200 thước, đức Thích Ca Như Lai huyền ký rằng khi đức Di Lặc ra đời ở trong tương lai, tự nhiên có bốn Đại Bảo Tạng xuất hiện nơi Thánh Địa nầy.

Tại đây cũng có nghe người xưa nhắc lại rằng có lúc động đất, núi non chấn động mạnh nhưng các bảo vật trong vòng một trăm bước, không bị chao đảo. Có kẻ ngu vì tham đào lên, cho nên đất chấn động. Người ta đi bộ để phòng ngừa đất Già Lam bị tổn hại. Một bên của đất Già Lam bị hư nặng và lâu rồi không có bóng dáng Tăng Sĩ. Thành phía Bắc 12,3 dặm có một Bảo Tháp do Vua A Dục kiến tạo nên. Tháp nầy đến giờ ngọ, phát ra ánh sáng. Hoa trời và nhạc trời chúc tụng mọi người nghe thấy.

Nghe rồi người xưa viết lại rằng: Gần đó có một người đàn bà đẹp, nhưng bị bịnh nan y. Bà đến Bảo Tháp nầy lễ bái sám hối. Thấy trong vườn tháp dơ nhớp, bà quét dọn sạch sẽ rồi rải hoa sen xanh lên trên mặt đất, bịnh của bà liền hết, dung mạo tươi thắm xinh đẹp, thân bà toả ra mùi hương hoa sen xanh. Ở nơi thắng địa nầy, ngày xưa đức Như Lai cũng tu khổ hạnh nơi nầy, làm Đại Quốc Vương hiệu là Chiến Đạt La Bát Lặt Bà (Nguyệt Quang) dốc tâm cầu Giác Ngộ, cắt đầu để bố thí. Sự bố thí nầy trải qua nghìn kiếp sống.

Bên cạnh Bảo Tháp, Bố Thí Đầu, lại có một Tăng Già Lam, vườn tược hoang phế, Tăng Tín Đồ giảm thiểu. Trong kinh tạng chép, nơi đây có Luận sư Câu Ma La La Đa (Đồng Thọ) trước thuật các bộ luận. Ngoài thành hướng Đông Nam của núi, lại có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, nơi Thái Tử Câu Lan Noa, con của Vua A Dục vì kế mẫu mà móc mắt. Vua A Dục cho dựng tháp nầy. Do sự kỳ nguyện chân thành mà mắt sáng lại như xưa. Thái Tử do chánh hậu sanh ra, bà ta là người đẹp đẽ nhân từ.

Khi Chánh Hậu mất đi, kế mẫu hoang dâm muốn tư tình với Thái Tử. Thái Tử khóc lóc muốn tự sát để tạ tội, cho nên kế mẫu thấy việc sai lầm nầy càng phẫn nộ thêm. Kẻ hầu nghe câu chuyện nầy bàn rằng phàm bậc kế thừa trị vì thiên hạ mà không phải là bà con hoàng tộc thì không được. Nay Thái Tử vì chữ Hiếu mà đã làm việc như thế. Cho nên Vua mới cảm kích nghe mưu gian nầy ra lệnh cho Thái Tử dạy rằng:

– Ta vì thừa mệnh trời mà kế tục sự nghiệp, phải dời đô, mất lời hứa với tiên vương cho nên phải giữ nước Đản Hữu Thủy La nầy. Ta nay ra lệnh ngươi qua trấn nhậm nước kia. Hiện tại quốc sự đang khó khăn, tình người đang phức tạp. Đi nhưng đừng có quên sự nối dõi. Chờ khi ta triệu với ấn tín của ta và qua khẩu lệnh của ta để biết mà thi hành.

Thái Tử vâng lệnh vua cha, sang nước đó trấn nhậm. Ngày tháng trôi qua, kế mẫu càng giận, trá tạo văn thơ đóng dấu phong kín, ra lệnh người hầu mang đi với ấn tín ấy. Kỵ sĩ mang thơ đi với sắc chỉ trong mình, đến gặp Thái Tử quỳ xuống dâng sắc. Thái Tử hỏi rằng:

– Tại sao buồn vậy?

– Đại vương có lịnh yêu cầu Thái Tử móc hai con mắt bỏ ở sơn cốc. Nếu vì nghĩa vợ chồng con cái sống chết cùng nhau, dù nhận lệnh như vậy nhưng chưa tuân theo thì phải tự trói để mà chờ tội.

Thái Tử đáp rằng.

– Lệnh của vua cha như thế có chết cũng chấp nhận. Ấn đã đóng trên thơ đã niêm phong không dối trá được.

Thái Tử ra lệnh cho Chiên Đà La móc mắt mình. Sau khi móc mắt, Thái Tử bị mù tự đi xin ăn. Số phận đưa đẩy trở lại cung thành của phụ vương, người vợ mới bảo rằng vương thành đây rồi. Than ôi! đói khát sao mà khổ quá. Mới ngày nào làm con vua bây giờ là kẻ ăn xin. Mong cho ai đó nghe biết điều nầy để thưa thỉnh lên trên liễu giám. Nên mới bày mưu tìm kế vào trong cung nội, đêm sau khóc lóc, nhờ tiếng gió đưa vào, hoà với tiếng sáo bi ai than thở. Nhà Vua ở trên lầu cao nghe được, giọng ai bi thảm cho nên nói rằng:

– Tiếng ca kia nghe như tiếng con của ta. Bây giờ tại sao ra nông nổi ấy. Liền hỏi nội thị, kẻ đang ca đó là ai vậy. Sai người đi mời kẻ mù kia vào cung. Nhà Vua thấy Thái Tử buồn rầu mới hỏi:

– Ai làm cho thân con ra nông nổi nầy? Con yêu quý của ta? Sao ra nông nổi nầy mà ta không biết. Bá tánh ơi ai cứu được con tôi ! Trời ơi sao mà ra nông nổi nầy. Đạo đức đã suy rồi. Thái Tử buồn khóc tạ lễ mà thưa rằng :

– Thật ra, con là kẻ bất hiếu với trời. Ngày tháng năm đó con đã nhận được sắc chỉ của cha. Không có lý do gì mà thối thác.

Vua biết tâm địa của kế mẫu đã làm việc ấy, cho nên đã gia hình phạt. Lúc ấy dưới cây Bồ Đề nơi vườn chùa, có một vị A La Hán tên là Cù Sa (Diệu Âm) đã chứng được đầy đủ tam minh và tứ vô ngại biện tài. Khi nghe Vua cáo bạch về đôi mắt của Thái Tử nên lấy lòng từ bi chữa mắt Thái Tử sáng lại. Lúc ấy vị A La Hán nhận lời thỉnh cầu của Vua, và cho mọi người biết rằng :

– Ngày mai ta sẽ Thuyết Diệu Pháp. Mỗi người đi nghe nên mang theo đồ đựng nước mắt.

Hôm sau, tất cả nam nữ xa gần tề tựu đến nghe. Lúc bấy giờ ngài A La Hán nói thập nhị nhơn duyên. Phàm ai nghe Pháp rồi mà chưa có lòng từ bi, thì hãy mang đồ đựng nước ấy đến đựng nước mắt. Sau khi thuyết Pháp xong ngài thu hết tất cả nước mắt đổ vào một cái bình bằng vàng, rồi thề rằng:

– Như lời nói Pháp của tôi hợp với chân lý. Nếu có gì sự lầm lẫn thì cũng đã giảng rồi. Như điều mà không sai, xin những nước mắt nầy đem tẩy rửa mắt mù, thì mắt liền được sáng và thấy lại như cũ.

Phát lời thệ xong, liền đem nước mắt để rửa mắt mù. Mắt mù liền sáng lại như cũ. Vua trách cứ và cật vấn các vị cận thần hoặc là dời chỗ, hoặc là tự tử. Các vị hào thế trong đời đều di cư vào núi Tuyết, ở trong động đá phía đông bắc của núi.

Từ đây đi về hướng đông nam qua các sơn động hơn 700 dặm, đến nước Tăng Ha Bổ La.

Bạn cũng có thể thích

Được đóng lại.