Đại Đường Tây Vức Ký (Kỳ 21)

T

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
                                                                             Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 21)
QUYỂN THỨ MƯỜI
(17 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng TrìSa Môn Biện Cơ soạn

  1. Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà
  2. Nước Chiêm Ba
  3. Nước Yết Châu Ôn Đệ La
  4. Nước Bôn Na Phạt Đản Na
  5. Nước Ca Ma Lầu Ba
  6. Nước Tam Ma Đản Thát
  7. Nước Trầm Ma Phiêu Đệ
  8. Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na
  9. Nước Ô Trà
  10. Nước Cung Ngự Đà
  11. Nước Yết Lăng Già
  12. Nước Kiều Tát La
  13. Nước Án Đạt La
  14. Nước Đà Na Yết Lân Ca
  15. Nước Châu Lợi Da
  16. Nước Đạt La Tỳ Trà
  17. Nước Chư La Cự Thác

1) Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà

Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà chu vi hơn 3000 dặm, kinh đô phía bắc giáp sông Hằng, chu vi hơn 20 dặm. Nơi đây trồng lúa hoa quả rất tốt tươi, khí hậu điều hòa phong tục thưần chất. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 4000 tăng tín đồ, đa phần tu theo Tiểu thừa phái Chánh Lượng Bộ. Có hơn 20 đền thờ, ngoại đạo sống hỗn hợp với nhau. Có ông Vua bên cạnh lật đổ Vua nước nầy mang kinh đô nước nầy cúng thí cho chúng Tăng. Tại thành nầy có xây dựng hai ngôi Già Lam, mỗi nơi gần 1000 người. Họ tu học theo Tiểu thừa Giáo thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ.

Phía bên thành lớn tiếp giáp với sông Hằng là núi Y Lan Nõa, sương khói luôn luôn che phủ ngày đêm. Xưa nay các vị tiên thánhtiếp tục hiển thánh nơi đây. Bây giờ có đền thờ ở phía nầy. Tại đây đức Như Lai cũng thường hay trú ngụ, đã vì trời người mà diễn thuyết Diệu Pháp. Thành lớn phía Nam có một Bảo ThápNhư Lai đã ở đây ba tháng để thuyết pháp. Bên cạnh là nơi ghi lại dấu tích của ba vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.

Phía tây nơi ba vị Phật kinh hành chẳng xa mấy, có một Bảo Tháp. Đây là nơi sanh trưởng của hai trăm ức Tỳ Kheo Lâu Đà Tần. Ngày xưa nơi thành nầy có một vị Trưởng Giả giàu có cự phú, nhưng chưa có người thừa kế. Cho nên đem hai trăm ức tiền vàng làm phước cầu con. Vì thế đứa con có tên là Cậu bé nghe hai trăm ngàn ức tiền vàng, liền đến chỗ chưa từng đặt chân đến. Với một bàn chân dài có cái lông chân hơn một thước, phát ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Cậu bé rất là xinh tươi đẹp đẽ, nhà ở tận trên núi Tuyết Sơn, được bảo đến ở bên nhà, để chế tạo thuốc nhưng không ai học được.

Người giàu có như thế, đức Thế Tôn biết rằng sẽ có một thiện căn phát triển cho nên mới bảo ngài Mục Kiền Liên đến để hóa độ. Ngài đến trước cửa nhà ông Trưởng giả chưa thông báo cho Trưởng giả và gia đình biết. Sáng đó ông đang hướng về hướng đông để lễ bái, lúc đó Tôn Giả dùng thần thông lực từ mặt trời mà hạ xuống phía trước. Trưởng giả nghi rằng đó là ông thần mặt trời do vậy cúng thí hương hoa đồ ăn rồi về. Đồ ăn và hương hoa nầy xông đến thành Vương Xá.

Lúc ấy Vua Tần Bà Sa La nghe mùi hương khác lạ nên mới ra lệnh tìm xem, bèn đến Tinh Xá Trúc Lâm để gặp Ngài Mục Kiền Liên và Ngài lại mới từ nhà của Trưởng Giả trở về, do vậy biết con ông Trưởng Giả có một điều rất kỳ dị cho nên mới triệu vào. Trưởng Giả thừa mệnh Vua và vui vẻ chèo thuyền đánh trống vượt sóng gió lớn rất nguy hiểm, rồi lên xe cỡi voi đến. Người xem đông đảo chen lấn đạp lên nhau, như thế từ nhà ông cho đến Vương Xá Thành, họ dẫm lên đè bẹp cây cỏ. Thuyền rồng phía trước hướng dẫn đến Vương Xá thành, trước đảnh lễ đức Thế Tôn, đoạn Thế Tôn bảo rằng:

– Vua Tần Bà Sa La ra lệnh mời ông đến muốn xem lông chân của ông. Vua muốn xem cho nên ông ngồi kiết già và đưa chân về phía Vua. Theo quốc pháp thì chết, nên Trưởng giả xin sám hối trước rồi vào bên trong. Vua muốn thấy cái lông chân bèn bảo ngồi kiết già. Vua rất vui vẻ khi thấy được điều đặt biệt trân quý nầy rồi cho trở về nơi Phật.

Lúc ấy Như Lai đã nói về pháp sám hối. Nghe xong tỉnh ngộ liền xin xuất gia. Ông rất siêng năng tu tập muốn cầu chứng thánh quảđi kinh hành không ngừng nghỉ nên chân ra máu. Đức Thế Tôn kêu lại bảo rằng:

– Nầy gã thiện nam! Lúc còn tại gia ngươi biết đàn phải không?

Đáp rằng:

– Dạ biết.

– Nếu biết rồi thì lấy đó làm thí dụ. Nếu dây căng quá thì chẳng hợp âm. Nếu dây dùn quá nghe chẳng hòa nhã, cho nên chẳng nhanh mà cũng chẳng chậm thì nghe mới được. Phàm kẻ tu hành cũng giống như vậy. Khi quá siêng năng thân sinh tật bịnh và tâm sinh giải đãi. Còn quá chậm chạp thì ý chí hao mòn.

Ông ta nghe Phật chỉ giáo rồi liền phụng hành không bao lâu được chứng quả.

Biên giới phía tây của nước là sông Hằng và phía nam đến núi Cô Sơn, nơi có nhiều núi non hiểm trởNgày xưa đức Phật đã an cư ở đây ba tháng, hàng phục Dạ Xoa Bạt Câu La. Phía đông nam của núi ở dưới chân núi có một tảng đá lớn nơi đó có dấu chân Phật còn lưu lại trên đá hơn cả thước. Chiều dài năm tấc hai và chiều ngang là hai tấc mốt. Trên đây có kiến tạo một Bảo Tháp. Tiếp đến phía nam gần tảng đá đó dấu tích nơi Phật để bình bát lún sâu hơn một tấc và có tám cái hoa sen mọc lên.

Không xa về phía nam cách chỗ Phật ngồi là dấu tích vết chân của Dạ Xoa Bạt Câu La, chiều dài năm sáu tấc, chiều rộng bảy tám tấc, ấn sâu xuống đá hai tấc. Phía sau dấu chân của Dạ Xoa, có một tượng Phật ngồi bằng đá rất lớn cao đến sáu bảy thước. Tiếp đến phía tây không xa mấy là nơi của Phật đi kinh hành. Ở trên đảnh núi nầy có chỗ của Dạ Xoa ở. Tiếp theo phía bắc có dấu chân của Phật dài hơn tám tấc và ngang hơn sáu tấc, ấn sâu xuống nửa tấc.

Trên dấu tích nầy lại có một Bảo Tháp. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai hàng phục Dạ Xoa làm cho chúng chẳng giết người để ăn thịtcung kính lãnh thọ giới của Phật sau đó rồi sanh Thiên. Phía tây có đến sáu bảy suối nước nóng. Nước ở đây rất nóng, biên giới phía nam giáp với rừng già. Trong đó có nhiều voi thân hình vĩ đại. Từ đây thuận theo sông Hằng về phía nam cách phía đông ba trăm dặm là nước Chiêm Ba.

2) Nước Chiêm Ba

Nước Chiêm Ba, chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành nằm ở phía bắc giáp với sông Hằng, chu vi hơn 40 dặm. Ruộng sâu nên cấy được nhiều lúa tốt. Khí hậu ôn hòa phong tục thuần chất. Có hơn 10 ngôi Già Lam, hầu hết bị hư. Tăng đồ hơn 200 người, họ tu theo Tiểu Thừa. Có hơn 20 đền thờ. Ngoại đạo sống lộn xộn. Tường của Đô Thành xây bằng gạch cao hơn một trượng. Bước được qua nơi nầy cũng rất nguy hiểm.

Ngày xưa ở kiếp sơcon người cùng muôn vật sống nơi hoang dã lấy hang núi làm nhà chưa có phòng ốc. Có một Thiên Nữ xuống trần dạo chơi. Đến sông Hằng tắm rửa uống nước, sau đó thọ thai, sinh ra bốn người con, chia đi hùng cứ mỗi phương ở Thiệm Bộ Châukiến thiết thủ đô thành ấp phân chia ranh giới và mỗi người cai trị một nước. Thành Thiệm Bộ Châu là thành đầu tiên. Phía đông của thành có hơn 150 dặm là sông Hằng Hà. Phía nam nước chảy xiết, trên đó có một đền thờ linh ứng. Người ta lấy đá làm phòng, lấy nước dẫn vào hồ. Hoa rừng có nhiều loại quý báu. Đỉnh núi nầy có nhiều đá cheo leo. Kẻ hiền nhơn và người có trí đều cư ngụ nơi đó. Khi xem nơi này thì quên trở về cố quốc. Biên giới phía nam của nước nầy là rừng hoang, trong đó có nhiều voi, mãnh thú số có hơn ngàn. Từ đây đi về phía đông hơn bốn trăm dặm đến nước Yết Châu Ôn Đệ La.

3) Nước Yết Châu Ôn Đệ La

Nước Yết Châu Ôn Đệ La chu vi hơn 2000 dặm, đất đai nước non ẩm thấp cho nên trồng lúa rất tốt. Khí hậu ôn hòa, phong tục tốt đẹp.Thường kính trọng những bậc học cao và quý trọng nghề nghiệp. Có sáu bảy ngôi Già Lam, và hơn 300 Tăng Sĩ. Có hơn 10 ngôi đền thờ, ngoại đạo tạp cư. Từ hàng trăm năm nay, Vương tộc đã tuyệt tự cho nên phụ thuộc nước bên cạnh. Vì vậy nơi thành có nhiều thôn xóm lập ra lộn xộnNgày xưa Vua Giới Nhựt đi về phía đông Ấn Độ liền cho xây dựng cung nầy và đặt chỗ cai trị. Đến ngày nay chỉ còn lại dấu tích vì lửa đã hỏa thiêu hết rồi.

Biên giới phía nam của nước ấy có nhiều voi rừng. Biên giới phía bắc giáp với sông Hằng. Không xa mấy, có một đài rất cao được xây bằng đá gạch. Đài nầy được chạm trỗ rất tinh vi. Chung quanh đài bốn mặt đều có chạm hình các vị Thánh. Hình Phật và hình chư Thiên được khắc riêng. Từ đây đi qua phía đông gặp sông Hằng. Đi hơn 600 dặm nữa, gặp nước Bôn Na Phạt Đản Na.

4) Nước Bôn Na Phạt Đản Na

Nước Bôn Na Phạt Đản Nachu vi hơn 4000 dặm. Đô thành chu vi hơn 30 dặm. Cư dân sống rất đông đúc. Có ao hồ có nhà cửa, có hoa lá rừng cây. Người người qua lại rất vui vẻ, đất đai nằm dưới thấp nên cày cấy rất thưận lợi. Có nhiều trái cây rất trân quý. Quả nầy lớn như trái bí đỏ và chuyển màu vàng đỏ sau khi chín. Cắt ra trong ruột có nhiều hạt nhỏ. Lớn như trứng chim hạc, khi đập ra trong đó có nước vàng đỏ. Mùi vị rất ngọt ngào. Hoặc tại nơi cành cây có nhiều trái kết lại với nhau, hoặc tại nơi gốc cây trái cũng như thế. Khí hậu điều hòa, phong tục tốt đẹp ưa chưộng sự học hỏi. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ. Họ tu tập theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Đền thờ của ngoại đạo có hơn 100 ngôi. Họ sống tạp nhạp tu theo đạo lõa thể.

Phía tây của thành hơn 20 dặm có một chùa tên là Bạt Thỉ. Vườn Chùa rất rộng có xây đài cao. Tăng đồ hơn 700 người, tu học theo Giáo Pháp Đại Thừa.

Biên giới phía đông Ấn Độ đa phần những bậc thạc học danh tăng đều sinh ra ở nơi nầy. Cách đây không xa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Ngày xưa đức Như Lai đã ở lại nơi đây ba tháng vì chư Thiên và loài người mà thuyết pháp. Đến giờ ngọ thường phát ra ánh sáng. Phía nầy còn có di tích của bốn vị Phật ngồi thiền và đi kinh hành. Nơi đây chẳng xa lại có một tinh xá trong đó có dựng tượng Bồ Tát Quán Tự Tại rất linh thiêng và thường hay ứng hiệnxa gần mọi người đều đến đây để cầu khẩn. Từ đây sang phía đông đi hơn 900 dặm, qua sông đến nước Ca Ma Lầu Ba ở phía đông xứ Ấn Độ

5) Nước Ca Ma Lầu Ba

Nước Ca Ma Lầu Ba, chu vi hơn vạn dặm. Đô Thành hơn 30 dặm, đất đai màu mỡ trồng trọt, thu hoạch tốt. Có nhiều trái cây quý. Trên rừng có nhiều danh mộc. Ngoài ra, sông ngòi và ao hồ giao nhau bên cạnh thành ấp. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Người ở đây tướng tốt nhưng da ngăm đen. Ngôn ngữ không khác mấy với người miền trung Ấn Độ. Tánh tình rộng rãi phóng khoángÝ chí cao cả ưa học tập. Người ở đây thờ thần là chính, không tin tưởng Phật Pháp. Cho nên từ thời đức Phật cho đến bây giờ, vẫn chưa thành lập được Già Lam nào để mời chư Tăng về. Tuy có một số ít tín đồ; nhưng chưa làm được gì cả. Có cả hàng trăm đền thờ và hàng vạn người theo ngoại đạo.

Vua bây giờ thuộc dòng dõi của Bổn Na La Diên Thiêngiai cấp Bà La Môn tên là Bà Tắc Kệ La Phạt Ma, hiệu là Câu Ma La, chiếm cứ lãnh thổ gần Vua Dịch Diệp. Nối tiếp cho đến bây giờ là đời Vua thứ 1000. Quốc Vương ham học. Cho nên dân chúng cũng noi theo. Những người học cao biết rộng đến đây rất đông. Tuy họ không thuần tín Phật Pháp, nhưng rất cung kính bậc Sa Môn, học cao, biết rộng. Đầu tiên họ nghe có vị Sa Môn đến nước nầy từ chùa Na Lan Đà của nước Ma Kiệt Đà, vị nầy là người từ xa đến học, nhưng Phật Pháp rất thâm hậu, khuyên răn mọi người đến ba lần. Nếu kẻ nào chưa đến thì ngài Thi La Phạt Đa La (Giới Hiềnluận sư nói rằng:

– Muốn báo ân Phật phải nên hoằng truyền Chánh Pháp. Con hãy đi đi, đừng nản lòng gì cả. Vua Câu Ma La tin theo ngoại đạo. Nhưng nay thỉnh Sa Môn đến là điều rất quý hóa. Nay nhân cơ hội nầy có thể biến đổi để được phước lợi về sau. Con ngày xưa với tâm từ quảng đại đã khởi lên tâm niệm và phát thệ hoằng thâm. Nguyện đi một mình đến các nơi khác. Bỏ thân để cầu Pháp, nhằm phổ tế hàm linh. Há điều đó từ nơi quê hương đã quên rồi sao? Chớ nệ hà vinh nhục hãy tuyên dương Thánh Giáo và khai đạo quần mê. Trước vì sự hoằng pháp mà hãy quên đi danh phận của mình. Đây là điều không được giải đãi mà nên tiến hành để hội kiến gặp gỡ.

Vua Câu Na La nói:

– Tuy là kẻ bất tài nhưng thường hay ái mộ những bậc học rộng tài cao, đã nghe danh từ lâu và muốn cung thỉnh.

Trả lời rằng:

– Kẻ nầy tài trí thô thiển thấp kém, không biết rằng có lưu được cái gì lại chăng?

Vua Câu Ma La đáp:

– Lành thaylành thay! Vì ham học Phật pháp mà làm cho ngài phải khổ thân. Vượt qua những khó khăn nguy hiểm, từ xa đến nước nầy, để theo những phong tục mà học hỏi. Bây giờ ở Ấn Độ nầy, các nước đều ca tụng ngài là bậc Đại Tỳ Kheo đã đến đây mang lại niềm vui cho bao người, cũng giống như quê hương của Đại Đức vậy.

Đáp rằng:

– Thật là một lời ca ngợi quá tốt đẹp. Đó là nhờ cái đức của quân vương.

Vua Câu Ma La nói:

– Bạch Đại Đức, đừng lo lắng. Người nước nầy ái mộ phong tục phía đông từ lâu. Không vì sơn xuyên cách trở, đường sá xa xôi, mà đã đến đây được là điều rất quý.

Đáp rằng:

– Với tôi, Vua là một bậc Thánh có cái đức rất cao cả, xa gần đều gội nhuần, đã làm cho mọi người cung kính trọng vọng.

Vua Câu Ma La đáp:

– Nhờ được che chở, lòng nầy muốn được triều cống cho Vua Giới Nhựt ở nước Yết Chư Ôn Đệ La sẽ làm đại Pháp Thí để trồng cây Phước Đức. Các vị Sa MônBà La Môn có học của năm nước Ấn Độ, chưa được triệu tập, nay lại thỉnh mời mong ngài cùng đi, đến nơi đó. Nước nầy ở phía đông dãy núi gần đây và không có đô thành lớn. Phía Tây Nam, tiếp giáp với biên giới, cho nên người ở đây như mọi rợ. Muốn biết vấn đề rõ ràng của nơi ấy thì cứ hai tháng đi về phía biên giới tây nam một lầnTuy nhiên núi sông hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Rắn độc, cây độc sẽ làm hại đến người và phía đông nam của nước ấy lại có nhiều bầy voi dữ. Cho nên trong xứ, có nhiều chiến trận sử dụng bằng voi. Từ đây đi về phía Nam hơn 1230 dặm, đến nước Tam Ma Đản Thát.

Ky21

6) Nước Tam Ma Đản Thát

Nước Tam Ma Đản Thát chu vi hơn 3000 dặm, nằm gần bờ biển, đất đai ẩm thấp. Đô thành rộng hơn 20 dặm. Cày cấy trồng trọt hoa quả tốt tươi. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần nhã, người tánh tình cương trực, da ngăm màu nắng. Siêng năng học tập, tà chánh đều tin. Có 30 ngôi Già Lam. Có hơn 2000 tăng đồ. Họ đều tu tập theo phái Thượng Tọa Bộ. Có 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Nơi đây họ tu theo phái Ni Kiền Tử (Lõa Thể). Cách thành không xa mấy, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên.

Ngày xưa đức Như Lai đã vì chư Thiên và loài người thuyết pháp ở nơi đây bảy ngày. Bên cạnh đó là dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Cách nơi nầy không xa có một Già Lam, trong đó có một tượng Phật ngọc xanh, chiều cao tám thước, tướng hảo trang nghiêm viên mãnvô cùng linh diệu. Từ đây đi đến phía đông bắc gặp bờ biển. Cách núi phía bên kia là nước Thất Lợi Sai Đản La. Tiếp đến phía tây nam của biển lớn là nước Ca Ma Lãng Ca. Tiếp đến phía đông là nước Tri La Bát Đệ. Tiếp đến phía đông có nước Y Thưởng Na Bổ La.

Tiếp theo phía đông có nước Ma Ha Chiêm Ba, là nước Lâm Ấp. Đến phía Tây Nam là nước Chiêm Ma Na Châu. Phàm sáu nước nầy núi sông cách trở cho nên không nhập cảnh được. Tuy nhiên những phong tục tập quán của các nước nầy đều được nghe biết. Từ nước Tam Ma Đản Thác đi qua phía tây hơn 900 dặm, đến nước Trầm Ma Phiêu Đệ.

7) Nước Trầm Ma Phiêu Đệ

Nước Trầm Ma Phiêu Đệ chu vi 1450 dặm. Đô Thành hơn 10 dặm. Nằm gần bờ biển nên đất đai ẩm thấp, cày cấy được mùa, hoa quả tốt tươi, khí hậu nóng nực, phong tục hùng tráng. Tánh người háo động, tà chánh đều tin. Có hơn 10 ngôi Già Lam, hơn 1000 Tăng Sĩ, có hơn 50 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Nước nầy có bờ biển và sông ngòi giao nhau, cho nên có nhiều vật quý báu tụ tập nơi đây. Phải nói rằng người của nước nầy rất giàu có. Phía trong thành có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng. Bên cạnh đó là nơi dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Từ đây đi đến hướng tây bắc hơn 700 dặm, đến nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na.

8) Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Noa

Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Noa có chu vi hơn 4450 dặm, có đô thành với chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng nơi đây rất giàu có sung túc. Ruộng nương nằm dưới thấp nên rất được mùa. Hoa trái cây cỏ tốt tươi. Khí hậu điều hòa, phong tục thuần hậu. Học vấn và nghề nghiệp cao. Tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 2000 Tăng Sĩ, tu theo phái Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ, có 50 đền thờ, theo ngoại đạo tạp cư. Đặc biệt có ba ngôi chùa không ăn sữa đặc, vì tôn sùng lời dạy của Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa.

Phía bên Đại Thành có một chùa tên là Lạt Đà Vị Tri, có vườn rất rộng, cũng như có các cốc nhỏ chung quanh. Trong nước có những bậc tài cao, thông minhmẫn tiệp, hoặc tập trung ở đây là những vị giới đức trang nghiêm mô phạm. Đầu tiên ở nước nầy, dân chúng chưa tin tưởng Phật Pháp. Khi ấy ở phía nam Ấn Độ có một người ngoại đạo, bụng mang lá đồng, đầu đội đèn sáng, tay chống tích trượng từ xa đi vào thành, liền đánh chuông trống muốn cầu luận nghị. Có người hỏi rằng:

– Đầu và bụng mang cái gì lạ lùng như vậy?

Đáp rằng:

– Ta có nhiều khả năng về học thuật, nhưng sợ cái bụng nó bể và buồn cho những kẻ ngu ám nên mới mang đèn đến để chiếu sáng.

Nhiều ngày sau người kỳ dị đó đi trên đường mà chẳng có ai hỏi đến. Vua bảo rằng:

– Trong nước của mình không có bậc minh triết nào sao? Đối với vị khách kia khó mà thù đáp, nhưng vì thể diện quốc gia, phải làm sao cầu thỉnh cho được người hiền đức.

Lại có kẻ thưa:

– Trong rừng sâu, cũng có một kẻ khác đời, khác người, tự xưng là Nhật Sa Môn. Có sở học rất cao cường và đã ở lâu nơi sơn lâm tịch tinh. Vì thể diện quốc gia cũng như đức độ của Vua, chẳng lẽ không thể mời được người nầy sao?

Vua nghe như vậy đích thân đi đến thỉnh mờiSa Môn đáp rằng:

– Tôi là người phía nam xứ Ấn Độ, đến đây ở lại học nghiệp rất nông cạn, sợ chẳng giống như điều nghe. Có thể đến được chẳng dám chối từ, nhưng xin thưa nếu luận nghị không thua phải kiến lập Già Lam để triệu tập tăng đồ đến chấn hưng Phật pháp.

Vua đáp:

– Xin cung kính ghi nhận và không quên công đức đó. Sau đó Sa Môn nhận lời thỉnh cầu đến đạo tràng để luận nghịLúc ấy ngoại đạo đọc tụng hơn ba vạn lời. Ý nghĩa sâu xa văn chương bác học bao hàm danh tướng thấy nghe trùng trùng như lỗ lưới. Sa Môn nghe qua một lần thì đã hiểu rõ từng câu từng chữ chẳng sai lầm, dùng lời để biện bạch cả trăm lần và giải thích cũng như để hỏi lại Ngoại ĐạoNgoại Đạo ý hết lý đuối, câm miệng chẳng thể trả lời. đã thua xấu hổ rồi lui. Vua thâm kỉnh cái đức ấy cho nên cho kiến tạo Già Lam nầy và từ đó về sau dùng nơi nầy để hoằng pháp.

Cách Già Lam chẳng bao xa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã khai đạo thuyết pháp bảy ngày. Bên cạnh đó có một tinh xá là nơi ghi lại dấu vết của bốn vị Phật trong quá khứ đã kinh hành và ngồi thiền. Lại có Bảo Tháp là nơi Như Lai đã ngồi thuyết pháp do Vua A Dục dựng nên. Từ đây đi qua phía tây nam, hơn 700 dặm, đến nước Ô Trà.

9) Nước Ô Trà

Nước Ô Trà có chu vi hơn 7000 dặm, có đô thành chu vi 20 dặm. Đất đai màu mỡ, lúa thóc được mùa. Hoa trái thật là sum sê và nhiều hoa thơm cỏ lạ, khó mà tường thuật hết. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần hậu. Người dung mạo đẹp đẽNgôn từ dịu dàng, khác với miền trung Ấn Độ. Thích học hỏi nhưng chẳng thâm tín Phật Pháp, có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 10 ngàn Tăng Sĩ, tất cả đều tu theo Đại Thừa. Có hơn 50 đền thờ, ngoại đạo sống tạp nhạp. Có hơn 10 Bảo Tháp, đều là những nơi đức Như Lai thuyết pháp và do Vua A Dục dựng nên.

Phía tây nam biên giới là núi cao, lại có một Già Lam nơi đó cũng có một Bảo Tháp bằng đá rất linh dị, đến trưa hào quang chiếu sáng rực rỡ. Cho nên có nhiều tịnh tín xa gần đến đây để lễ bái, hoặc mang hương hoa tràng phan bảo cái để tu phước cúng dường. Số nhiều vô kể và những Bảo Cái được dựng ở bên ngoài rất đẹp đẽ. Từ phía tây bắc của Già Lam lại có một Bảo Tháp cũng giống như phía trước. Đây là hai Bảo Tháp mà do chư Thần kiến tạo nên. Cho nên rất linh dị.

Phía đông nam biên giới của nước, giáp bờ biển lớn có thành Chiếc Lợi Đản La với chu vi hơn 20 dặm. Tại xứ nầy có nhiều lữ khách đến từ vùng biển. Họ qua lại các nơi khác và dừng ở đây. Thành quách rất kiên cố vì có nhiều của quý. Bên ngoài thành có hơn 50 ngôi Già Lam.Trong chùa có trang trí những tượng rất trang nghiêm. Phía nam đến nước Tăng Già La hơn hai vạn dặm. Những đêm thanh tịnh đáo mắt nhìn về nước kia thấy Bảo Tháp răng của Phật, trên đó có phóng ra hào quang, giống như đèn chiếu sáng huyền bí nhiệm mầu. Từ đây đi về phía tây nam vào trong rừng sâu đi hơn 1200 dặm, đến nước Cung Ngự Đà.

10) Nước Cung Ngự Đà

Nước Cung Ngự Đà có chu vi hơn 1000 dặm, Đô Thành hơn 20 dặm, nằm cạnh bờ biển lại có núi cao. đất đai ẩm thấp, lúa thóc được mùa. Khí hậu ấm áp. Phong tục náo động. Hình tướng kỳ dị, nước da đen bóng. Tuy có lễ nghĩa nhưng ưa dối tráChữ viết giống như miền trung Ấn Độ, lời nói và phong tục có nhiều khác biệt. Tôn sùng ngoại đạo chẳng tin Phật Pháp. Có hơn 100 ngôi đền thờ và hơn vạn người ngoại đạo. Trong nước có 10 thành nhỏ.

Biển và núi giao nhau cho nên thành rất kiên cố, binh lính mạnh mẽ oai hùng nằm ở biên giới, chẳng ai địch nổi. Đất nước nầy giáp biển cho nên có nhiều vật quý. Dùng ốc sò trân châu là phương tiện trao đổi khi mua bán. Nơi đây có nhiều voi xanh, chạy rất nhanh. Từ đây qua phía tây nam vào nơi hoang dã đến rừng sâu, có cây cối rậm rạp, đi hơn 1450 dặm, đến nước Yết Lăng Già nằm ở miền nam Ấn Độ.

11) Nước Yết Lăng Già

có chu vi hơn 5000 dặm, đô thành hơn 20 dặm. Lúa thóc hoa quả được mùa. Rừng rậm cây cối hoang vu, có cả hàng trăm loại động vật khác nhau. Có nhiều voi xanh sanh sản ở đây được xuất khẩu qua các nước bên cạnh. Khí hậu nóng bức, phong tục thô bạo. Tánh tình con người hung tợn, nhưng ý chí còn tin nơi điều nghĩa. Ngôn ngữ nhẹ nhàng khi phát âm điều tiết. Tiếng nói phong tục khác với miền trung Ấn Độ, ít tin tưởng chánh pháp, lại hay tin theo ngoại đạo. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 500 tăng đồ, họ theo cả hai truyền thống Đại Thừa và Thượng Tọa Bộ. Có hơn 100 ngôi đền thờ, Ngoại đạo sống hỗn tạp, đa phần là Ni Kiền Tử.

Nước Yết Lăng Già, tại đây ngày xưa có lúc tập tục của nhân gian rất thịnh hành. Người xứ nầy xúc phạm đến vị Tiên Nhơn, đạt đến Ngũ Thông và vị ấy mất hết thần thông cho nên dùng chú thuật tàn hại người cả nước. Do đó người ở đây còn lại rất ít. Ngày tháng trôi qua càng ngày càng giảm. Vì phạm lỗi đó cho nên người càng ngày càng ít.

Thành phía Nam chẳng xa có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng lên. Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ ngồi Thiền và kinh hànhBiên giới phía bắc đến đỉnh núi cao lại có một Bảo Tháp bằng đá cao hơn 100 thước. Vào một kiếp sơ nọ khi con người thọ nhiều tuổi, có một vị Độc Giác Phật nhập Niết Bàn nơi đây. Từ đây đi về phía tây bắc chỉ toàn là núi và rừng rậm. Đi hơn 1800 dặm, đến nước Kiều Tát La, nằm ở miền trung Ấn Độ

 

Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.

Phẩm Song Yếu

Tháng 11 năm 2024
21
Giờ hoàng đạo: Dần (3-5), Mão (5-7), Tỵ (9-11), Thân (15-17), Tuất (19-21), Hợi (21-23)
Thứ 5
Ngày Kỷ Sửu
Tháng Ất Hợi
Năm Giáp Thìn
Lịch âm
21
Tháng 10
Kiên Giang