Đại Đường Tây Vức Ký (kỳ 20)

T

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
                                                                             Pháp Sư HUYỀN TRANG
(kỳ 20)
QUYỂN THỨ CHÍN
(1 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng TrìSa Môn Biện Cơ soạn

Nước Ma Kiệt Đà – Phần hai

Phía tây nam của vườn trúc đi hơn năm sáu dặm đến núi phía nam. Ở trong vườn trúc có một phòng bằng đá rất lớn. Đây là nơi Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp cùng với 999 vị A La Hán sau khi đức Như Lai nhập Niết Bàn kiết tập Tam Tạng. Trước đó còn di tích cũ. Vua A Xà Thế đã vì sự kiết tập Pháp Tạng, mà dựng nên nơi nầy cho các vị Đại A La Hán. Đầu tiên ngài Đại Ca Diếp tĩnh tọa nơi sơn lâm, rồi phóng đại quang minh lại thấy đất đai chấn động và nghĩ rằng điềm lành gì mà có sự dị biến nầy. Đoạn dùng thiên nhãn để quán sát, thấy Thế Tôn đang ở giữa hai cây Sa La sắp nhập Bát Niết Bàn, có ý gọi Ngài đến rừng thành Câu Thi Na. Đi dọc đường gặp Phạm Chí tay cầm hoa trời và hỏi Ngài Phạm Chí:

– Ngài từ đâu đến? Có biết thầy của ta bây giờ ở đâu không?

Phạm Chí đáp rằng:

– Tôi mới từ thành Câu Thi Na đến, thấy Thầy của ngài đã nhập Niết Bàn. Trời người đại chúng đang vây quanh cúng dường. Tôi đã được hoa nầy từ nơi đó.

Ngài Ca Diếp nghe xong nói với môn đồ rằng:

– Ánh sáng trí tuệ đã chìm. Thế giới nầy không còn mặt trời nữa. Kẻ dẫn đường cho chúng sanh đã bị đảo lộn. Trong khi đó, giải đãi Tỳ Kheo vui mừng nói rằng:

– Như Lai tịch diệt rồi tôi rất là an lạc. Nếu có phạm điều gì đâu có ai mà qưở trách.

Ngài Ca Diếp nghe xong liền bi cảm thương tâmSuy nghĩ rằng phải tập họp để tuyên dương Pháp tạng giáo hóa những người phạm lỗi. Thế rồi đến nơi Sa La đảnh lễ dưới chân Phật. Biết rằng Đấng Pháp Vương ra đi thì không có ai hướng dẫn trời người, cả các bậc Đại A La Hán cũng đều muốn diệt độLúc ấy Ngài Đại Ca Diếp liền suy nghĩ rằng nên thuận theo lời Phật dạy để triệu tập gìn giữ Pháp Tạng, cho nên đã lên trên núi Tô Mê Lô, đánh đại kiền chùy xướng lên như thế này:

– Nay tại thành Vương Xá sẽ có Pháp Sự các bậc đã chứng quả nên vân tập.

Khi nghe tiếng kiền chùy của Ngài Ca Diếp báo hiệu rung động đến 3000 đại thiên thế giới. Những bậc đã chứng được thần thông nghe xong liền vân tập. Lúc bấy giờ Ngài Ca Diếp bảo với đại chúng rằng:

– Như Lai đã tịch diệt thế giới chẳng còn gì. Nay ta tập trung những Pháp Tạng nhằm để báo ân Phật. Nay tập họp Pháp Tạng là nhiệm vụ đến không phải để tranh tụng. Há chẳng phải là dịp hội họp để chẳng thành gì cả thì không nên. Chỉ những bậc đầy đủ tam minh lục thông nghe điều ấy rồi chẳng dùng đến biện tài vô ngại như lời Thượng Nhơn đã truyền đạt mà đến để kiết tập. Trừ những bậc đã chứng đắc ra thì ở lại còn kẻ khác trở về. Tại đây có 999 người, còn sót lại ngài A Nan là bậc hữu học, ngài Đại Ca Diếp mời vào và bảo rằng:

– Ngươi là người chưa dứt lậu tận mà ở trong hàng thánh chúng, theo làm thị giả Như Lai trong nhiều năm, mà trong Pháp Hội nầy chưa đạt được quả vị sự kiết tập nầy khó thành. Đấng Pháp Vương đã tịch diệt rồi mất đi chỗ nương tựa cho nên ngài Ca Diếp bảo tiếp:

– Hãy đừng có lo rầu khổ não. Ngươi là người thân cận gần gũi làm thị giả Phật, thành bậc đa vănTuy nhiên việc ái cảm chưa dứt trừ và những kiết sử chưa đoạn hết.

A Nan liền đứng dậy ra đi đến một nơi yên tịnh muốn chứng quả Vô Họchết lòng cần cầu mà chẳng chứng càng bị giải đãi nên muốn thối lui. Thế rồi, chưa gục đầu đã chứng A La Hán, đoạn đi đến nơi kiết tập, cúi đầu trước cửa để gọi. Ngài Ca Diếp hỏi rằng:

– Ngươi đã hết lậu hoặc chưa? Nếu đã hết rồi thì vận thần thông mà vào.

Ngài A Nan thừa mệnh ngang qua lỗ cửa mà vào. Sau đó đảnh lễ chư tăng rồi đến chỗ ngồi.

Lúc đó đúng vào ngày 15 của mùa an cư kiết hạ.

Ngài Ca Diếp cao tiếng nói rằng:

– Hãy lắng nghe đây! A Nan đã nghe nhớ giữ được lời dạy của Như Lai về Kinh TạngƯu Ba Ly trì giữ Luật Tạng, bậc thông suốthiểu biết về Luật Tạng nên trùng đọc kiết tập Tỳ Nại Da. Ta là Ca Diếp sẽ kết tập A Tỳ Đạt Ma tạng.

Sau ba tháng mùa mưa nầy, việc kiết tập Tam Tạng đã xong. Thế rồi ngài Ca Diếp từ trong chúng lên ngồi ở ngôi vị Thượng Tọa. Nhân đây mà gọi là Thượng Tọa Bộ.

Phía tây bắc nơi ngài Đại Ca Diếp kiết tập lại có một Bảo Tháp ngài A Nan bị Tăng khiển trách không được dự phần kiết tập đến để ngồi thiền và chứng quả A La Hán và sau khi chứng quả rồi mới đến tham dự. Phía tây nơi chứng quả A La Hán đi hơn 20 dặm, lại có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nơi mà Đại chúng bộ đã kiết tập. Những bậc có học vô học số hơn trăm ngàn người không tham dự việc kiết tập của ngài Đại Ca Diếp đến nơi này bàn với nhau rằng:

– Khi Như Lai còn tại thếchúng ta cùng học một Thầy. Khi đấng Pháp Vương tịch diệt rồi, chúng ta khó gặp nên muốn báo ân Phật thì phải gìn giữ Pháp Tạng. Cho nên phàm thánh hiền ngu đều được vân tập để kiết tập gồm Tu Đa La tạng (Kinh Tạng), Tỳ Nại Da tạng (Luật Tạng) và A Tỳ Đạt Ma tạng (Luận tạng) rồi Tạp Tập Tạng và Cấm chú tạng gồm tất cả năm tạng mà kiết tập thành. Lần nầy có cả Phàm Thánh đồng câu hội cho nên gọi là Đại Chúng Bộ.

Phía bắc của Trúc Lâm Tịnh Xá đi hơn 200 bước đến Hồ Ca Lan Đà, nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp nhiều lần. Nước trong veo đầy đủ tám công đức. Sau khi Phật nhập Niết Bàn nước không còn nữa. Phía tây bắc hồ Ca Lan Đà đi hai ba dặm có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên cao hơn 60 thước. Bên cạnh đó có trụ đá khắc ghi việc lập Bảo Tháp nầy. Bảo Tháp cao hơn 50 thước trên đó có làm hình con voi.

Phía đông bắc thạch trụ chẳng bao xa, đến thành Yết La Xà Kiết Lỵ Tu (Vương Xá). Bên ngoài khó có thể đột nhập vào, bên trong thành đã hư hoại chỉ còn lại dấu tích mà thôi, chu vi hơn 20 dặm, chỉ có một cửa. Đây là kinh đô đầu tiên của Vua Tần Bà Sa La. Phía trên cung thành có nhiều nhà cửa đã gặp hỏa hoạn làm hại. Thân tộc của Vua Tần bốn bên đều bị nguy nàn, phòng lửa không kỹ cho nên bị hư hoại hết sản nghiệp, chúng dân oán hận vì ở nơi nầy không yên. Vua bảo:

– Ta chẳng có đức cho nên làm cho dân chúng không yên. Vậy phải tu phước gì để được?

Quần thần tâu rằng:

– Đại Vương là bậc có đủ tài uy đức nhuận hóa quần sanh, chỉ vì tệ dân bất cẩn mới sanh việc hỏa tai. Nên chế ra luật nghiêm khắc để trừ hậu hoạn. Nếu mà lửa còn bốc cháy nữa, thì phải đày người bị tội vào nơi rừng sâu và sẽ chết trong đó để chẳng ai biết đến được và những kẻ a tòng cũng phải bị vào đó mà chết theo. Họ sẽ xấu hổ mà ở yên và phải tự cẩn trọng lo lắng cho mình.

Vua bảo:

– Đúng là lấy độc trị độc. Lúc ấy hướng về Vương cung thấy lửa tắt mới bảo với các thần rằng:

– Ta sẽ ra đi rồi ra lệnh cho Thái Tử nhiếp chính và gìn giữ kỷ cương của đất nước.

Lúc ấy Vua Tỳ Xá Ly nghe vua Tần Bà Sa La vào nơi rừng lạnh đoạn chỉnh trang binh lính muốn đánh úp. Những người hầu cận nghe tin nầy liền xây thành ấp. Thành xây cho tiên vương nên gọi là Vương Xá Thành. Các quan chức và thứ dân hoặc ở lại, hoặc chuyển nhà cửa đến thành mới của Vua A Xà Thế kiến trúc. Sau khi Vua lên ngôi dời đô đến đây. Mãi cho đến thời Vua A Dục mới dời đô về thành Ba Thác Ly, còn Vương Xá thành dành cho người Bà La Môn. Cho nên trong thành nầy bây giờ không có phàm dân mà toàn là người Bà La Môn chưa tới 1000 gia đình.

Phía tây nam cung thành có hai Già Lam nhỏ, chư tăng các nước đến ở lại đây. Đây là nơi đức Phật ngày xưa thuyết pháp hằng ngày, tiếp đó phía tây bắc có một Bảo Tháp. Đó là nơi sinh trưởng của Trưởng giả Châu Đệ Sắc Già, Thụ Đề Già.

Bên ngoài cửa phía nam của thành, phía bên trái của đường đi có một Bảo Tháp. Đây là nơi Như Lai thuyết pháp để độ cho La Hầu La. Từ phía bắc nầy đi hơn 30 dặm, đến Na Lan Đà Tăng Già Lam. (Thí Vô Yểm). Nghe các bậc kỳ lão nói lại rằng:

Ở phía nam của Già Lam nầy, có một cái ao nằm giữa vườn xoài. Trong đó có con rồng có tên là Na Lan Đà, bên cạnh đó có xây một ngôi chùa, lấy tên của rồng mà đặt tên chùa. Khi đức Như Lai còn tu Bồ Tát hạnh làm một đại quốc vương đã thành lập thủ đô ở đây. Vì thương chúng sanh mà cho họ niềm vui. Với cái đức tốt đẹp đó người ta gọi là Thí Vô Yểm, (cho mà không ngại). Do lý do nầy mà tên chùa được gọi như vậy.

Nguyên đây là một vườn Xoài có năm trăm người thương nhân, dùng mười ức tiền vàng để mua cúng Phật. Phật ở xứ nầy thuyết pháp ba tháng. Các thương nhân đều chứng Thánh quả. Phật nhập Niết Bàn chẳng bao lâu, tiên vương của nước nầy là Lạc Ca La A Dật Đa (Đế Nhựt) kính trọng Phật thừa tôn sùng Tam Bảo, nên cúng đất nầy để xây Già Lam. Việc nầy làm cho con rồng bị thương, lủng thân. Lúc ấy ngoại đạo Ni Kiền Tử thấy vậy nói rằng:

– Đây là một thắng địa muốn kiến lập Già Lam tất nhiên là hưng thạnh. Vì năm nước Ấn Độ mà làm tiêu bìểu cho ngàn năm hưng thạnh và những kẻ đến sau dễ thành đạt. Nhưng sẽ có nhiều máu huyết làm tổn thương thân con rồng. Kẻ học ở đó dễ đạt được học nghiệp nhưng sau nầy bị mửa máu. Sau đó Vua Phật Đà Cúc Đa, (Giác Hộkế tục truyền thống ấy để tôn thừa Phật Nghiệp. Tiếp theo nơi nầy ở phía Nam kiến tạo một Già Lam.

Sau đó Vua Đản Tha Yết Đà Cúc Đa ( Như Laitu bổ lại. Tiếp đến phía đông lại kiến lập một Già Lam sau khi Vua Bà La A Dật Đa (Ấu Nhựt) tức vị. Kế tiếp đó ở phía đông bắc lại kiến lập một Già Lam. Sau khi làm xong liền tổ chức Pháp Hội và tổ chức lễ nghi cũng thỉnh các bậc hiền thánh, đến tham dự lễ có chư tăng của năm xứ Ấn Độ. Họ đến từ ngàn dặm xa xôi. Chư tăng đã ngồi hết xuống, có hai vị mới đến sau được đưa lên tầng thứ ba, hỏi rằng:

– Nay Vua thiết lễ trước để thỉnh các vị Phàm ThánhĐại Đức từ phương nào sao đến muộn vậy?

Đáp rằng:

– Ta đến nước nầy. Hòa thượng của tôi bị bịnh, chờ ngài ăn xong mới đi. Nhận được thiếp thỉnh của Vua nên đến đây.

Người hỏi đó kinh ngạc tâu lên Vua. Khi Vua biết đó là vị Thánh, đích thân đến vấn an rồi từ từ lên lầu nhưng mà chưa biết đi đâu. Được biết rằng vị đó là một vị có thâm tín Tam Bảo, bỏ nước xuất gia. Khi mới xuất gia thì phải ngồi sau cùng trong tăng, cho nên tâm thường không vui bảo rằng:

Ngày xưa mình làm Vua là đấng tối cao ở trên đời. Bây giờ xuất gia mà ngồi sau cùng trong chúng. Sau đó, bạch lên chư tăng thuật lại sự tình và chúng Tăng được hòa hợp. Rồi ra lệnh cho những người chưa thọ giới ngồi theo thứ đệ tuổi tác của mình. Cho nên đây là ngôi Già Lam riêng có chế độ nầy.

Sau khi con của Vua Phạt Xà La (Kim Cang) tức vị, với tín tâm kiên cố Vua cho xây dựng phía tây nầy một ngôi Già Lam khác. Sau nầy các Vua khác kiến tạo một Đại Già Lam nữa ở phía bắc. Vườn chùa rất rộng rãi nhưng chỉ một cửa ra vào. Những vua kế tiếp luôn luôn trùng tu kiến tạo cùng với những sự sửa chửa để trở thành trang nghiêm. Vua nói:

– Ngôi Già Lam nầy bây giờ an trí tượng Phật và mỗi ngày thỉnh trong chúng ra 40 vị tăng đến đây để dùng trai. Đó là ân đức của thí chủ. Có hơn 1000 vị tăng ở đây đều là những người thật tu, thật học, đạo đức cao vời, đương thời đâu đâu cũng nghe tiếng, số ấy hơn 100 người. Họ là những người giới hạnh thanh bạchluật nghi trang nghiêm. Những gì mà tăng đã chế thì họ đều vâng giữ tốt đẹp. Khắp xứ Ấn Độ bây giờ ai ai cũng đều kính ngưỡng, cầu thỉnh họ đến để đàm luận huyền nghĩa suốt ngày không đủ. Đêm đến tọa thiền tỉnh thức để tiến tu.

Những người không đàm luận về lẽ u huyền của Tam Tạng tự mình thấy xấu hổ cho nên tìm đến những người khác mà vấn đạo hoặc đến cúi đầu vâng mệnh để hỏi những điều nghi. Những ai mạo danh để đi khỏi hoặc được trọng vọng ở nơi khác, muốn vào đàm luận nghĩa lý hỏi han, thì bị hỏi khó cho nên đa phần đều thối lui. Chỉ những kẻ học sâu biết thông kim cổ thì mới được vào. Đây là nơi mà các vị du tăng sau nầy đến đó có thể luận bàn rõ ràng. Trong mười người đã có hết bảy, tám người cao bay xa chạy, hai ba người còn lại toàn là những bác học bác vật ở trong chúng tiếp tục cật vấn. Những ai chưa bị bẽ gãy cũng bị tà đi rồi mới nêu danh.

Phàm là kẻ cao tài bác vật, hiểu biết sâu xa thì có nhiều tài. Làm sáng tỏ cái đức của triết nhân biện hộ quang huy tiếp tục cho điều mô phạmcho đến việc gìn giữ Phật pháp như gìn giữ mặt trăng làm chấn động nơi nơi để giữ lại lời giáo huấnĐạo đức sáng ngời ấy chảy thông suốt cho đến bây giờ là nhờ vào ánh sáng lý luận minh bạch. Kẻ được thắng thì được vinh danh cao, trí tuệ như mặt trăng như gió thổi sáng suốt vô cùng. Ngài Giới Hiền ở đâu là có cái đức cao vời như thế. Đó là bậc Thượng Nhơn trong chúng đầy đủ đức độ đã làm hưng long, cho cái học ở trước cũng như kinh điển ngày xưa. Ngài đã thuật lại cũng như trước tác cả hơn mười bộ luận mà cho đến ngày nay vẫn còn lưu thông và được trân quý như lúc đương thời. Bốn phía Già Lam đều có thắng tích hơn 100 nơi. Đây chỉ lược nói hai ba cái mà thôi.

Phía tây của Già Lam không xa có một tinh xá. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã dừng lại ba tháng, vì trời người mà diễn nói Diệu Pháp. Phía nam hơn 100 bộ có một Bảo Tháp nhỏ là nơi các Tỳ Kheo ở xa đến gặp Phật. Tương truyền rằng: Ngày xưa có những Tỳ Kheo đến từ phương xa. Tại đây họ gặp đức Như Lai và Thánh Chúng liền phát tâm ngũ thể đầu địa. Sau đó phát nguyện cầu được địa vị của chuyển Luân VươngNhư Lai nghe xong liền bảo Đại Chúng rằng:

– Ông Tỳ Kheo kia thật là đáng thương, phước đức thâm sâu tín tâm kiên cố, như cầu quả vị Phật, không bao lâu sẽ chứng mà nay phát nguyện làm chuyển Luân Vươngtrong đời vị lai chắc chắn sẽ thọ báo nầy. Thân thể khi gieo xuống đất thì thành vòng vàng, ở giữa đó có rất nhiều vi trần và mỗi mỗi vi trần như vậy là một Báo Thân của Luân Vương. Cứ thế với niềm vui như vậy sẽ làm xa lìa Thánh Quả.

Phía nam nầy có một bức tượng Bồ Tát Quán Tự Tại đứng, với hình dáng tay bưng lư hương đi nhiễu bên phải của Phật.

Phía nam của tượng Bồ Tát Quan Tự Tại có một Bảo Tháp, nơi đây thờ tóc và móng tay của Như Lai sau ba tháng mới cắt, vì Ngài đi nhiều và bịnh yếu. Ở phía tây có một cái hồ lớn, nơi đó có một Bảo Tháp, nơi đây ngoại đạo đã cầm con chim sẻ và hỏi đức Phật rằng con chim nầy sống hay chết. Tiếp theo phía đông nam, đi hơn 50 bước, có một cây đặc biệt cao tám chín thước. Thân cây có hai cành. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã ngồi đây để xỉa răng. Nhơn đây trồng cây ấy xuống ngày tháng trôi qua, nhưng chẳng tăng giảm.

Tiếp đến phía đông, có một Tinh Xá lớn cao hơn 200 thước. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã ở lại bốn tháng và thuyết Diệu PhápTiếp theo phía bắc hơn 100 bước, có một Tinh Xá trong đó có thờ tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát, những thiện nam tín nữ thường đến đây để cúng dường. Có nhiều người thấy biết khác nhau hoặc ngài đứng nơi cửa, hoặc đi ra phía trước. Chư tăng và Phật tử các nước đến đây cúng dường rất nhiều.

Phía bắc của Tinh Xá Quán Tự Tại Bồ Tát, có một Tịnh Xá lớn cao hơn 300 thước do Vua Bà La A Dật đã kiến thiết, rất trang nghiêm tốt đẹp và bên trong có một tượng Phật giống như tượng ở Chùa nơi có gốc cây Bồ Đề. Phía đông bắc có một Bảo Tháp, tại đây đức Như Lai ngày xưa đã ở lại bảy ngày để diễn thuyết Diệu Pháp.

Phía tây bắc là nơi tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Phía nam lại có một Tinh Xá bằng đá, do Vua Giới Nhật kiến lập. Tuy chưa xong nhưng to lớn hơn mười trượng và sau nầy tiếp tục xây dựngTiếp theo phía đông hơn 200 bước, ở bên ngoài có một tượng Phật đứng bằng đồng cao đến 80 thước. Chùa Viện cao năm sáu tầng, do vua Mãn Tào dựng lên ngày xưa. Phía bắc tượng đồng của Vua Mãn Tào đi hai ba dặm gặp một tịnh xá bằng gạch, trong đó có nhiều tượng Bồ Tát. Nhiều tượng rất cao và linh ứng vô cùng. Mỗi năm vào ngày mồng một, Phật tử đến chiêm lễ và cúng dường rất nhiều.

Các vua và đại thần của các nước lân bang thường hay mang hương hoatràng phanbảo cáivàng bạc, đá quý, tơ lụa, trúc v.v… dâng lên. Kiến lập Pháp Hội suốt bảy ngày bảy đêm như thế. Cửa phía nam có một cái giếng lớn. Ngày xưa nơi đây đức Thế Tôn đã gặp một đại thương nhân bị sốt nóng hành hạđức Phật lấy tay chỉ xuống đất nơi có nước. Thương chủ cho xe đến để đào đất lên. Nước tự nhiên phun lên thành vòi. Ông ta uống rồi nghe Phật thuyết pháp liền chứng ngộ quả Thánh.

Phía tây nam của Già Lam đi tám chín dặm, đến ấp Câu Lý Ca. Giữa đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là quê hương của Tôn Giả Mục Kiền Liên. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi mà Tôn Giả đã nhập Vô Dư Niết Bàn. Ở trong nầy vẫn còn thờ di thân xá lợi của Tôn GiảTôn Giả là dòng dõi của Đại Bà La Môn cùng với Xá Lợi Phất thưở thiếu thời là bạn thânXá Lợi Phất là bậc tài trí thông minh hiếm có. Còn Tôn Giả tinh thông tài trí không ai bằng được. Nguyện là trước sau cùng nhau đồng sống chết và cả hai đều chối bỏ cuộc sống thế tục mà muốn xuất gia, liền bỏ Thầy mình là Sách Xà Da Phiệt.

Sau đó ngài Xá Lợi Phất gặp ngài Mã Thắng là bậc A La Hán, sau khi nghe Pháp chứng thánh quả, bèn trở lại tìm Tôn Giả để tường thuật lại. Khi Tôn Giả nghe xong liền ngộ và chứng sơ quả. Liền cùng với 250 đồ đệ đến nơi đức PhậtĐức Phật thấy liền bảo đại chúng rằng:

– Người mà đến kia trong đệ tử của ta sẽ là người có thần túc đệ nhất.

Đoạn Phật mời vào trong Pháp HộiThế Tôn nói tiếp:

– Thiện Lai Tỳ Kheo! khéo tu phạm hạnh xa lìa trần cấu.

Sau khi nghe lời ấy xong, tóc trên đầu rụng xuống, biến hóa khỏi hình người tục. Giới phẩm thanh tịnh uy nghi điều phục, qua khỏi bảy ngày chứng quả A La Hán được lục thần thông.

Ở phía đông nơi quê hương của ngài Mục Kiền Liên đi ba bốn dặm có một Bảo Tháp. Đây là nơi Vua Tần Bà Sa La nghinh đón đức Phật. Sau khi Như Lai vừa chứng Phật quả được biết rằng Người ở nước Ma Kiệt Đà có tâm khát ngưỡng, nên đã nhận lời thỉnh cầu của Vua Tần Bà Sa La. Vào một buổi sáng tinh sương, ngài đắp y mang bình bát cùng với một ngàn vị Tỳ kheo hai bên tả hữu quây quanh cùng với những vị Phạm Chí kỳ cựu, tóc xoắn ốc cùng một đoàn chư Tăng mặc áo hoại sắc theo sau vào thành Vương Xá.

Lúc bấy giờ Đế Thích Thiên Vương biến thành Ma Na Bà. Đầu cũng bới tóc, tay trái cầm vòng vàng tay phải cầm tích trượng quý. Chân đi trên không cách mặt đất khoảng bốn lóng tay làm kẻ dẫn đường cho Phật và Đại chúng. Lúc bấy giờ Vua Tần Bà Sa La của nước Ma Kiệt Đà cùng với Bà La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ ở trong nước số người lên đến trăm ngàn vạn, trước sau ra khỏi Vương Xá Thành để cung nghinh Thánh Chúng.

Ky20

Phía đông nam nơi Vua Tần Bà Sa La nghinh Phật đi hơn 20 dặm liền đến nơi Ca La Tỵ Noa Ca. Nơi đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nơi cố hương của Tôn Giả Xá Lợi Phất. Có một cái giếng bây giờ vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi Tôn Giả tịch diệt, trong nầy có toàn thân Xá Lợi của Tôn GiảTôn Giả xuất thân từ giòng Bà La MônThân phụ của Ngài tài cao học rộngthông đạt những lẽ huyền vi. Chưa có một điển tịch nào mà chưa nghiên tầm đến. Thân mẫu ngài nằm mộng và kể lại cho thân phụ ngài rằng:

– Đêm qua, tôi mộng thấy một người lạ thân hình to lớn trên tay cầm chày kim cang phá vỡ các hòn núi lớn, đập bể ngọn núi xuống.

Thân phụ bảo:

– Giấc mộng thật là lành. Bà chắc chắn sẽ sanh một đứa con trai, là người học hết việc thế gian và trên tất cả các luận sư, phá hết tất cả các tông phái, chỉ trừ có một người mà phải làm đệ tử.

Sau khi có thai, mẹ của Ngài bỗng nhiên rất thông mẫnluận bàn với những bậc cao kiến, không ai có thể khuất phục nổi. Tôn giả năm lên tám tuổi thanh danh rạng rỡ bốn phương, tánh tình thuần hậu, giàu lòng từ bi, xả bỏ những xưa cũ, thành tựu trí huệ. Đã cùng với Mục Kiền Liên, người bạn thân tthưở thiếu thời chán ngán trần tục, chưa có chỗ nương tựa. Đã cùng với Mục Kiền Liên đến nơi Ngọai Đạo Sách Xà Gia để tu tập và cùng nói với nhau rằng:

– Lý chưa đạt được cứu cánh, thì chưa thoát khỏi khổ đau, mỗi chúng ta nên tìm con đường sáng, ai được cam lồ thì san sẽ cùng hưởng một lúc. Lúc bấy giờ có ngài Đại A La Hán Mã Thắng cầm bình đi vào thành khất thực. Ngài Xá Lợi Phất thấy uy nghi tịch tịnh liền hỏi rằng:

– Thầy của ngài là ai?

Đáp rằng:

– Thái Tử dòng họ Thích, đã thấy cuộc đời vô thường nên xuất gia thành Đẳng Chánh Giác. Ngài là Thầy của ta.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi:

– Có thể nói cho tôi nghe Pháp đó được không?

Đáp rằng:

– Tôi mới thọ Pháp chưa đạt hết cái nghĩa thâm hậu.

Ngài Xá Lợi Phất bảo:

– Nguyện được nghe những điều như thế

Ngài Mã Thắng tùy nghi theo đó mà diễn thuyết. Nghe xong Ngài Xá Lợi Phất liền chứng sơ quả. Sau đó, liền cùng với 250 người đến gặp Phật. Đức Thế Tôn trông thấy bảo đại chúng rằng:

– Trong đệ tử của ta, đây là người có trí tuệ bậc nhất.

Khi đến rồi ngài liền đảnh lễ và nguyện theo học Pháp.

Đức Thế Tôn liền bảo:

– Thiện Lai Tỷ Kheo!

Nghe xong rồi, liền đầy đủ giới phẩm. Sau đó nửa tháng nghe Phật thuyết pháp cho Phạm Chí có móng tay dài. Nghe sự đàm luận xong, thì giác ngộ chứng đắc A La Hán.

Sau khi A Nan nghe Phật cho biết sắp đến thời kỳ tịch diệt liền hồi tưởng những lời nói đó buồn khổ thê thảm. Ngài Xá Lợi Phật càng tăng thêm sự luyến nhớ và ngưỡng vọng. Không thể nhẫn tâm để thấy Phật vào Niết Bàn, liền xin phép Đức Thế Tôn được nhập diệt trước. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo:

Đã đến lúc nên thông báo và cảm tạ với mẫu thân. Hãy đi về nơi sanh quán và thị giả Sa Di sẽ thông báo trong thành ấp biết cùng Vua A Xà Thế và quốc dân, chỉ trong chốc lác mọi người đều vân tập. Ngài Xá Lợi Phất vì mọi người mà nói rộng. Tất cả nghe xong rồi lui. Rồi giữa đêm sau trong Chánh Định tâm sáng suốt vào Diệt tận định rồi từ Định nầy mà vào tịch diệt.

Phía đông nam của làng Ca Na Tỳ Noa Ca đi bốn năm dặm có một Bảo Tháp là nơi Tôn Giả Xá Lợi Phất cùng với môn nhân nhập Niết Bàn. Lại cũng có Thuyết cho rằng:

Đây là nơi mà Phật Ca Diếp khi còn tại thế đã cùng với ba ức Đại A La Hán nhập Vô Dư Niết Bàn ở đây.

Phía đông của Bảo Tháp nơi ngài Xá Lợi Phất cùng môn nhân nhập diệt, đi hơn 30 dặm, đến núi Đà La Thế La Tốt Ha (Đế Thích Động) Núi nầy có nhiều hang đá rừng cây u tịch, núi tự nhiên có hai đỉnh đột khởi cao lên. Giữa đỉnh phía tây và đỉnh phía nam có một hòn đá lớn. Tuy rất rộng mà chẳng cao. Đây là nơi mà Như Lai ngày xưa thường hay dừng lại. Thường thường Thiên Đế Thích đã hỏi 42 điều nghi ở nơi tảng đá nầy để thỉnh vấn và Phật đã thuyết pháp cho Đế Thích ở đây. Nơi đây vẫn còn tượng ghi lại câu chuyện ngày xưa. Người vào bên trong lễ bái không thể không ngạc nhiên trước vẻ đẹp. Phía bên trên núi là di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi Thiền. Trên đỉnh phía đông có một Già Lam. Người xưa bảo rằng:

– Tăng chúng thường hay thấy ban đêm nơi đây chia ra làm bốn ngọn núi và trước phòng đá có thờ tượng Phật mỗi bên đều có ánh đèn chiếu sáng rực rỡ.

Ngọn núi phía đông của núi Nhơn Đà La Thế La Tốt Ha có một Già Lam và phía trước đó có một Bảo Tháp, gọi tên là Đan Ba. Ngày xưa đã ở nơi Già Lam nầy để tu tập theo Tiểu Thừa thuộc về Tiểu Thừa Tiệm Giáo. Cho nên khai mở việc dùng Tam Tịnh Nhục, để Già Lam nầy khỏi rơi vào chỗ phạm giới. Nhưng về sau việc dùng Tam Tịnh Nhục không còn tiếp tục nữa. Có một Tỳ Kheo đi kinh hành ngang qua, thấy có bầy chim nhạn bay ngang nghe nói rằng:

– Hôm nay trong phần ăn của chúng tăng không đủ. Sau khi ngài Ma Ha Tát Đỏa thông báo như vậy rồi.

Lời nói chưa dứt liền nghe tiếng vỗ cánh đập mạnh tự sát trước chư tăng. Vị Tỳ Kheo thấy thế liền bạch chúng Tăng. Nghe thấy như vậy rất động lòng cho nên xin thưa:

– Như Lai thuyết pháp tùy theo căn cơ chúng sanh, nhưng chúng sanh ngu muội chỉ giữ tiệm giáo, còn Giáo Lý Đại Thừa thì chính đáng hơn, cho nên bỏ việc nầy đi để cải đổi theo Thánh Chỉ, con nhạn nầy là một giới răn cho chúng ta thấy rồi đó. Đó là một cái đức rất dày, không làm sao tả hết được. Nơi đây có một Bảo Tháp để khuyên răn và làm kỷ niệm nơi con chim nhạn đã chết.

Phía đông bắc của núi Nhân Đà La Thế Ha Tốt Ha đi hơn 156 dặm đến chùa Ca Bố Đức Ca. Nơi đây tăng đồ hơn hai trăm người. Họ theo học Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía đông của chùa lại có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng nên. Ngày xưa, Phật đã ở nơi nầy vì Đại chúng có một đêm thuyết pháp, có một người thợ săn vào rừng đặt lưới bắt những loài có cánh. Một ngày nọ chẳng bắt được con nào cả cho nên nói rằng:

– Tôi là người bạc phước chẳng làm nên sự tình gì

Cho nên đến nơi Phật mà nói lớn rằng:

– Hôm nay, Đức Như Lai nói Pháp ở tại đây, làm cho con không bắt được con chim nào cả, vợ con của con sẽ giận dữ vì đói khát và sẽ bỏ con ra đi.

Như Lai bảo:

– Nhà người hãy mang lửa lại đây sẽ có ăn.

Đức Như Lai hóa thành con chim Đại Bàng lao vào trong lửa rồi chết. Người thợ săn mang về vợ chồng gia đình cùng ăn. Sau đó đến nơi đức PhậtNhư Lai vì phương tiện đã nhiếp hóa. Kẻ bắt chim nghe Pháp xong liền hối quá tự sửa mới lại đời mình, liền bỏ tục xuất gia tu học chứng Thánh qủa. Vì vậy có tên là Chùa Đại Bàng.

Chùa Ca Bố Đức Ca về phía nam hơn hai ba dặm đến núi Cô Sơn, núi nầy có nhiều cây cỏ tốt tươi. Có nhiều hoa đẹp lẫn trong rừng cây xanh mướt một màu. Bên trên có nhiều Tịnh Xá và Miếu Thờ điêu khắc rất là công phu. Chính giữa tịnh xá có tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát. Thân mình cao lớn đẹp đẽ giống như một vị thần tay cầm hoa sen. Trên đảnh đầu có tượng PhậtThường có nhiều người nhịn ăn để tâm cầu thấy được Bồ Tát. Sau bảy ngày, mười bốn ngày cho đến một tháng thì có sự linh cảm.

Thấy được đức Quán Tự Tại Bồ Tát diệu tướng trang nghiêm uy quang rực rỡ từ trong tượng nầy bước ra an ủi mọi ngườiNgày xưa Vua Tăng Già La từ biển Nam, một ngày đẹp trời soi kiếng chỉ thấy mặt mà không thấy được thân, nghe biết rằng ở nước Ma Kiệt Đà thuộc Thiệm Bộ Châu, nơi rừng Đa La trong đó có một núi nhỏ, trên cao có tượng Bồ Tát nầy. Do đó nhà Vua, một lòng mong cầu được đến và quả thật như vậy, khi đến đây đã gặp. Nhân đây mà kiến thiết tịnh xá để tu phước cúng dường. Từ đó về sau, các Vua chúa thường theo phong tục nầy đến đây để lập tinh xá, chùa, viện rồi đem hương hoa kỷ nhạc cúng dường không dứt.

Phía đông nam của núi Cô Sơn, nơi có tượng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát đi hơn 40 dặm đến một Già Lam tăng đồ hơn 50 người. Họ học theo Tiểu Thừa. Phía trước chùa có một Bảo Tháp lớn rất là linh dị. Đây là nơi mà Phật ngày xưa, đã vì Phạm Thiên Vương thuyết pháp trong vòng bảy ngày. Nơi đây cũng là di tích của ba vị Phật trong quá khứ ngồi thiền và kinh hành.

Phía đông bắc của Già Lam đi hơn 70 dặm, gặp sông Hằng. Phía nam của sông Hằng có một làng rất lớn. Nhân dân giàu có và có rất nhiều đền thờ cùng những hình tượng điêu khắc. Phía đông nam chẳng bao xa lại có một Bảo Tháp mà Phật ngày xưa đã ở lại nơi đây để thuyết pháp. Từ đây đi đến phía đông vào trong rừng núi đi bộ hơn 100 dặm, đến làng Lạc Bát Nị La. Phía trước chùa có một Bảo Tháp lớn do Vua A Dục xây dựng. Nơi đây ngày xưa đức Phật đã ở lại ba tháng để thuyết pháp. Từ đây đến phía bắc hơn hai ba dặm có một ao lớn chu vi hơn 30 dặm, trong hồ nầy có hoa sen bốn màu nở quanh năm suốt tháng. Từ đây đi về phía đông vào trong rừng cây, đi bộ hơn 200 dặm nữa, đến nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dã.

Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển chín


    Leave a comment
    Your email address will not be published. Required fields are marked *

     Nó mắng tôi, đánh tôi,
    Nó thắng tôi, cướp tôi
    Ai ôm hiềm hận ấy,
    Hận thù không thể nguôi.

    Phẩm Song Yếu

    Tháng 11 năm 2024
    20
    Giờ hoàng đạo: Tý (23-1), Sửu (1-3), Mão (5-7), Ngọ (11-13), Thân (15-17), Dậu (17-19)
    Thứ 4
    Ngày Mậu Tý
    Tháng Ất Hợi
    Năm Giáp Thìn
    Lịch âm
    20
    Tháng 10
    Kiên Giang