Lễ Vu Lan là truyền thống tốt đẹp của Phật giáo thể hiện tinh thần quý trọng ơn nghĩa và đền đáp nghĩa ơn. Khi Phật tại thế, chính Ngài và hàng đệ tử đã là tấm gương sáng tiêu biểu cho sự thực hành trọn vẹn ý nghĩa Vu Lan báo hiếu.
Đức Phật đã từng nhắc nhở: "Hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật". Trên nền tảng coi trọng hiếu để như vậy, ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên được Đức Phật xếp vào một trong bốn trọng ơn mà hàng đệ tử phải luôn ghi nhớ và thể hiện trong nếp sống tu tập.
Như vậy, có thể khẳng định đạo Phật là đạo hiếu thảo, không phải như nhiều người hiểu lầm, nghĩ rằng người xuất gia lìa bỏ gia đình là bất hiếu. Ý nghĩ sai lầm này bắt nguồn từ ảnh hưởng Nho giáo, theo đó chủ trương sanh con nối dõi tông đường, chống giặc, hết lòng phò vua giúp nước mới là có hiếu.
Đạo Phật là đạo giác ngộ, tức sử dụng hiểu biết sáng suốt để thấy được nên báo hiếu bằng cách nào mới thực sự trả được ơn nặng của cha mẹ, tổ tiên; thấy được nên phò vua, giúp nước như thế nào cho có ý nghĩa, đạt hiệu quả tốt cho mình và người. Thật vậy, nếu làm công việc nối nghiệp tổ tông mà sản sanh toàn những đứa con hư hỏng, phá làng hại nước thì chẳng báo hiếu được gì, còn làm tổn thương danh dự của cả dòng họ. Hoặc nếu ngu muội, phò giúp ông vua tàn ác, ăn chơi sa đọa, chỉ làm khổ dân thì đắc tội hơn là có công. Hoặc hy sinh thân mình cho một cuộc chiến tranh vô nghĩa cũng không thể coi là giúp nước.
Đức Phật, tuy bỏ ngôi vua, xuất gia hành đạo, không nối nghiệp vua cha Tịnh Phạn, nhưng phải khẳng định rằng Đức Phật là bậc đại hiếu. Thật vậy, với chí hướng thượng, xả thân tu hành, Ngài đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, trở thành bậc đạo sư của nhân loại khắp năm châu, được người đời cung kính cúng dường, thờ phượng, đảnh lễ suốt thời gian dài hơn 25 thế kỷ. Nhắc đến tôn danh Phật, ôn lại cuộc đời Ngài thì người ta phải nhắc đến vua Tịnh Phạn, đến tổ tiên dòng họ Sakya. Đức Phật đã làm sáng danh vua Tịnh Phạn, làm cho người nhớ đến công ơn của dòng họ Ngài. Nếu không xuất gia tu hành đạt thành Chánh Giác, không là bậc Thầy của Trời, Người, mà cũng sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu người khác để tiếp nối ngôi vị đế vương thì ngày nay còn mấy ai biết đến mà nhắc nhở, khen ngợi dòng họ Sakya ?
Hàng đệ tử xuất gia nối chí Phật tất yếu cũng mang trọng trách đền đáp ơn nghĩa. Ơn lớn cần báo đáp không chỉ giới hạn trong tình thân cốt nhục, vì theo nhãn quan của Phật giáo, soi sáng bằng trí tuệ, thấy được sự hiện hữu của mỗi người trên cuộc đời đều có tương quan mật thiết với cá nhân khác, với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì vậy, hạnh báo hiếu, báo ơn của đệ tử Phật thường được diễn tả là "Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ"; đó là hạnh nguyện báo hiếu cao độ, rộng lớn, thể hiện thành hạnh báo đáp bốn ơn trong mùa Vu Lan : ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn xã hội và ơn Tam Bảo. Bên cạnh trách nhiệm đền đáp bốn ơn ấy, trên bước đường tu, đệ tử Phật còn cứu khổ chúng sanh trong ba đường ác. Nổi bật nhất là gương đại hiếu của Đức Mục Kiên Liên. Và hơn thế nữa, Ngài còn làm rạng danh Phật pháp, tuẩn tiết như một Thánh giả.
Mục Kiền Liên là một trong 10 đại đệ tử của Phật, chỉ một tuần sau khi quy y Phật, Ngài đã đắc quả A La Hán và nổi tiếng thần thông bậc nhất. Ngài trợ thủ đắc lực cho Đức Phật trong công việc hoằng hóa độ sanh.
Nhưng một hôm, trên đường hành đạo, Tôn giả Mục Kiền Liên đã bị sát hại bởi bọn lõa hình ngoại đạo xô đá từ trên núi xuống. Không ít người thắc mắc tại sao Tôn giả không dùng thần thông để đối chọi lại với ngoại đạo mà để cho họ thảm sát như vậy ?
Thiết nghĩ Tôn giả Mục Kiền Liên với tư cách của vị Thánh A La Hán, Ngài đã thấu suốt ba đời nhân quả của kiếp sống mình và người. Từ thấy biết chính xác ấy, thấy được việc đáng làm, làm rồi sẽ kết thành quả tốt đẹp như thế nào, kể cả kết cuộc là chấm dứt mạng sống của chính mình, thì Ngài cũng thanh thản chấp nhận.
Phải chăng với trí tuệ của bậc Thánh giả, Mục Kiền Liên quán sát tương quan nhân quả nhiều đời, thấy rõ oan nghiệt của Ngài từng gieo trồng với bọn ngoại đạo lõa thể. Vì vậy Tôn giả lựa chọn phương cách trả túc nghiệp ấy bằng cách tự để yên cho họ giết. Điều này nói lên ý nghĩa Phật dạy khi nghiệp thành, tức quả đã chín thì thần thông cũng không còn hiệu lực.
Sinh thời, Mục Kiền Liên vì muốn phát huy chánh pháp, xô ngã tà đạo nên đã sử dụng thần thông làm cho bọn ngoại đạo tà giáo nhiều phen thất bại. Từ đó bọn ngoại đạo kết oán thù với Ngài, rắp tâm hãm hại Ngài khi có điều kiện.
Trên đường thực hành Bồ Tát đạo, nếu việc làm của chúng ta mang lại lợi lạc cho số đông, làm sáng danh đạo pháp, mà có làm thiệt hại cho một thiểu số người thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận hậu quả không tốt đưa lại. Tôn giả Mục Kiền Liên rất biết điều ấy, cho nên Ngài thản nhiên nhận lấy cái chết do bọn ngoại đạo gây ra cho Ngài. Quả thật Tôn giả Mục Kiền Liên làm Phật sự không biết mệt mỏi, sử dụng cả cái chết của mình như một phương tiện làm đạo, xiểng dương chánh pháp.
Trong mùa Vu Lan thường mưa dầm gió bấc, gợi chúng ta nhớ nghĩ đến cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc đã qua đời, hoặc sống không nơi nương tựa. Chạnh lòng nhớ đến người quá cố và khởi tâm muốn báo hiếu báo ân, chúng ta thường tụng kinh, cầu nguyện, bố thí, cúng dường để hồi hướng cho tất cả được tái sanh về cảnh giới an lành. Bên cạnh những việc làm phước thiện ấy, thiết nghĩ Tăng, Ni, Phật tử cần nỗ lực tu hành, phát huy trí tuệ, tăng trưởng phước đức mới có thể báo hiếu báo ân theo đúng tinh thần Phật dạy :
"Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ"