Chúng ta cũng đã chứng kiến không ít người đã nằm xuống với nỗi khổ đau vì một đức tin mù quáng trong các cuộc chiến tranh tôn giáo, trong các cuộc tự sát tập thể của các giáo phái cuồng tín, cực đoan… Họ đã hy sinh cả cuộc đời để cuối cùng nhận một danh hiệu nào đó. Mà như em biết, tên gọi dù dưới hình thức nào thì nó cũng chỉ là một sự định danh. Giá trị của nó chỉ có trong giao tiếp giữa một người với một người, chứ không có một chỗ đứng nào trong cuộc sống nội tâm, ngoại trừ những ảnh tượng hay tính chất mà nó mang theo.
Khi bảo em hãy tự giải phóng mình ra khỏi niềm tin tôn giáo là anh muốn mời gọi em trở lại với trách nhiệm của mọi tư duy và hành xử của chính mình. Niềm tin trong tôn giáo của chúng ta là niềm tin về một đạo lý – đạo lý nhân quả. Chúng ta không thể chạy trốn những gì mà mình đã gieo rắc trong cuộc đời thông qua lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ, tâm lý của chính con tim và khối óc này. Chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nó, vì đó là những gì không thuộc về Thượng đế, mà thuộc về chúng ta. Và niềm tin mà chúng ta hẳn phải nương tựa cũng chính là niềm tin vào từ những hành động nhỏ nhoi trong cuộc sống của chính mình.
"Không ai có thể làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai có thể làm cho ta trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta; chỉ có ta làm cho ta nhiễm ô, và cũng chỉ có ta làm cho ta trở nên trong sạch". Lời dạy ấy như một xác định tối hậu và dứt khoát loại trừ các thế lực bên ngoài mà chúng được xem là luôn luôn chi phối đời sống tâm lý của con người.
Bây giờ, con đường xây dựng niềm tin được xác lập rõ cho sự thăng tiến của chúng ta, đấy là một niềm tin bền chắc và vĩnh hằng dựa trên nguyên tắc nhân quả. Nguyên tắc này giúp chúng ta hiểu được quá khứ của mình, hiện tại của mình và tương lai của mình. Thầy bói không còn cần thiết cho mình nữa! Chúng ta có thể tự xem biết tương lai của mình ra sao theo những gì mình đang suy nghĩ và đang làm. Tất nhiên, cho đến bây giờ, khi chưa phải là một người giác ngộ, những hiểu biết về nhân quả của mình chỉ là những hiểu biết được phát sinh từ nhận thức mà thôi. Đấy là những nhận thức giới hạn còn tùy thuộc vào khả năng lĩnh hội thực tại. Vì lẽ, cái biết của con người về thực tại luôn luôn chỉ là một phần rất nhỏ được phóng chiếu từ tâm thức mà không phải là một toàn thể của thực tại, về thực tại hay thực tại chính nó. Do đó, C.Jung nói rằng: "Đôi mắt của bạn bao giờ cũng bị giới hạn bởi cái bạn đã là". Điều đó cho thấy rằng khả năng nhận thức về thế giới vật chất của chúng ta còn tồn tại rất nhiều điều phiến diện, như con mắt khi hướng về phương Nam thì không thể thấy biết những gì đang diễn ra ở phương Bắc. Đối với những vấn đề thuộc về tâm thức thì sự nhận diện càng tinh tế và uyên ảo hơn.
Từ đó, em nên biết rằng, dù vững tin vào nhận thức của mình, nhưng không nên cố chấp rằng, bao giờ nhận thức của mình cũng đúng. Vì con người luôn được hiểu là một khả thể toàn diện của những cái bất toàn; và trên những cái bất toàn, chỉ có con người là kẻ duy nhất làm cho chúng trở nên toàn thiện. Thomas Fuller nói: "Kẻ nào sa vào tội lỗi, kẻ ấy là một con người; kẻ nào đau khổ vì tội lỗi, kẻ ấy là một thánh nhân; nhưng kẻ nào hãnh diện vì tội lỗi, kẻ ấy là một con quỷ dữ".