Đức Phật Trong Nam Tạng Và Bắc Tạng

ĐỨC PHẬT

QUA NHÃN QUAN CỦA NAM TẠNG

a di da phat buddha thailand golden buddha 08 by kwanyinbuddha d6mhikr

Nguyên thủy, Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ ghi nhận rằng Thế Thôn và các Thánh đệ tử A La Hán đều giải thoát khỏi sanh tử, nhưng vẫn có một số điểm phân biệt giữa Ngài và các Thánh đệ tử ấy. Ngài là Giáo chủ duy nhất, là một Thế Tôn duy nhất trong hiện kiếp; còn các đệ tử của Ngài chỉ có thể chứng A La Hán thực hiện con đường giải thoát. Nguyên thủy và Thượng tọa bộ ghi sự biểu hiện của Thế Thôn như một nhân vật lịch sử rất Người. Kiếp này là kiếp sau cùng, Ngài thành Phật với sự nỗ lực khám phá của riêng Ngài. Ngài sống một cuộc sống gần gũi con người và đầy tính người, ngoại trừ lòng từ bi vô hạn và trí tuệ ngời sáng vô biên của Ngài.

Hình ảnh Thế Tôn trong Nikàya và Àgama là hình ảnh của một khất sĩ đi chân không trong suốt 45 năm giáo hóa rất dung dị. Có lần Ngài đi hoằng hóa một mình và trú mưa một đêm trong chòi lá của người thợ làm đồ gốm. Tại đây, Ngài đã chuyện trò thân mật với một thanh niên cũng vào trú mưa, du sĩ Pukkusati, đã nói pháp, khích lệ giúp chàng chứng đắc quả Bất Lai ngay tại chỗ (Trung Bộ kinh III – kinh Giới Phân Biệt).

Một lần khác, Ngài cũng lâm bệnh nặng như các đệ tử của Ngài. Bấy giờ, Ngài yêu cầu Tôn giả Cunda nói lại pháp Thất Giác Chi cho Ngài nghe. Pháp hỷ sanh khởi và Ngài lành bệnh ngay (Tăng Chi Bộ kinh IV và Tương Ưng IV).

Những lúc không có thị giả theo Ngài, Ngài tự mình nhặt lá khô làm thảo tọa để ngồi. Lúc trọng tuổi, có nhiều khi nhức mỏi thân thể, Ngài ngưng nói giữa thời thuyết pháp và nhờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói tiếp. Đoạn, Ngài ngả lưng xuống nghỉ tại chỗ.

Có nhiều lần, Ngài ngồi trong thế nhập định uy nghi đến nỗi vua trời Đế Thích không dám đến yết kiến Ngài để thọ pháp. Nhưng chính lúc bấy giờ, một thanh niên Càn Thát Bà đã ôm đàn tỳ bà ngồi gảy tại một gốc cây gần Ngài và hát lên tiếng hát của tình yêu. Ngài đã bật cười, trò chuyện với thanh niên và hỏi chàng do đâu mà chàng có những lời lẽ nối kết được tình yêu và chân lý ? (Trưởng Bộ kinh III, phẩm Đế Thích sơ vấn).

p699273618 5

Ngài đã từng tự mình đi đến nói chuyện với nông dân và chỉ hướng sống tốt đẹp cho họ. Ngài không chỉ giảng dạy giáo lý giải thoát, mà còn rất quan tâm đến đời sống gia đình, xã hội của các cư sĩ và hạnh phúc tương đối của họ. Ngài đã dạy thanh niên Singala về sáu mối tương hệ xã hội : tương hệ giữa cha mẹ và con cái; thầy và trò; vợ và chồng; chủ và thợ (người giúp việc); cá nhân với bà con láng giềng; tu sĩ và cư sĩ (Trung Bộ kinh 31).

Ngài đã dạy cư sĩ Koliya Dighajànu (Tăng Chi Bộ kinh, tập IV), người muốn sống với vợ con, trang điểm và tiền của, thế nào để sống có hạnh phúc gia đình bằng những lời lẽ rất là thực tiễn như là : phải giỏi nghề, siêng năng, giỏi điều hành công việc, biết chi thu hợp lý, biết đầu tư, điều hòa sức khỏe và tâm lý, làm bạn với người thiện. Về hạnh phúc tương lai, Ngài dạy về Tín, Thí, Giới và Tuệ.

Ngài cũng dạy vua chúa, cấp lãnh đạo về biện pháp cải thiện kinh tế, xã hội, bảy điều kiện cho một xã hội cường thịnh và mười pháp để trở thành nhà lãnh đạo tốt của nhân dân (Tăng Chi IV, chương 7 và 10 pháp). Ngài đã tự thân ba lần cản ngăn một cuộc chiến xảy ra giữa hai dân tộc Sakyas và Koliyas (Tăng Chi IV, chương 7 pháp).

Ngài đã giáo dục đem lại lợi ích vì hạnh phúc của chư Thiên và loài người. Ngài luôn luôn trung thành với giáo hóa bằng "thân giáo" và "khẩu giáo". Thái độ giáo dục thực tiễn và đầy tình người, một lần khác được biểu hiện qua một mẩu chuyện kể ở Nikàya và Àgama rất phổ biến trong giới Phật tử : Một lần, tu sĩ ngoại đạo biểu diễn thần thông bằng cách đi trên mặt nước và thách Thế Tôn làm như thế. Thế Tôn ôn tồn hỏi : "Ông tu luyện bao lâu mới có thể vượt qua sông với thần thông ấy?" – "Mất ba mươi năm!" tu sĩ ngoại đạo trả lời.- "Ta chỉ mất có ba xu để đi đò là qua được bên kia bờ" Thế Tôn nói.

ĐỨC PHẬT

QUA NHÃN QUAN CỦA BẮC TẠNG

buddha wallpaper Tian tan buddha statue

Ở Đại Chúng Bộ, hình ảnh của Thế Tôn lại được thánh hóa, siêu nhân hóa, từ khi nhập thai cho đến khi thị tịch. Ngài đã là vị Phật ở cung Trời Đâu Suất, còn tất cả những gì xảy ra ở trần thế chỉ là "thị hiện". Vì vậy mà mọi chuyện ở Ngài đều mang ý nghĩa tuyệt đối, thanh tịnh, vô lậu. Cho đến những lời nói thông thường của Ngài cũng là những lời pháp có diệu lực khiến các cảnh giới khác nhau đều có thể nghe và hiểu được theo cách của mình. Điều này, Kimura Taiken có bàn đến trong cuốn "Đại Thừa Tư Tưởng Luận" (bản dịch của TT Thích Quảng Độ, Tu thư Vạn Hạnh 1969, Sài Gòn).

Như thế, Đức Thế Tôn trong Nguyên Thủy và Thượng Tọa Bộ được trình bày như là "Ứng thân"; trong Đại Chúng Bộ được trình bày như là vừa "Pháp thân" vừa "Báo thân".

Bắc tạng, như ở Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v…Đức Thế Tôn xuất hiện giữa vùng hào quang kỳ diệu, giữa thần thông biến hóa vô cùng. Bắc tạng không cho rằng chỉ có một Đức Thế Tôn trong hiện kiếp, mà bằng nỗ lực của riêng mình, mọi đệ tử của Ngài có thể thành Phật trong hiện tại. Đức Phật không phải mới thành Phật, mà đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước lâu xa lắm. Ở trên đời này, Ngài chỉ thị hiện Đản Sanh và Niết Bàn. Ngài không chỉ thuyết pháp ở vùng Trung Ấn, mà còn thuyết pháp ở các cung trời, cõi Phật. Thính chúng của Ngài gồm cả mười phương chư Bồ tát.

amida buddha 101 1000x1000

Dù hình ảnh Thế Tôn xuất hiện khác nhau dưới ngòi bút của các nhà Bắc truyền và Nam truyền, điểm gặp gỡ quan trọng nhất giữa các bộ phái PG và giữa các thời kỳ phát triển PG là : Thế Tôn ra đời chỉ vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người và mọi loài chúng sanh, chỉ dạy con đường ra khỏi sanh tử, khổ đau, cứu cánh Niết bàn, giải thoát. Ngài thuyết pháp giáo hóa ở đời trong 45 năm và giảng dạy những giáo lý nền tảng : Duyên khởi, Vô ngã, Từ đế, Bát thánh đạo, Ngũ Uẩn, Nhân quả, và giáo lý của Ngài luôn được xây dựng trên Gio71im Định và Tuệ.

Bạn cũng có thể thích
Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.