Qua những nét đại cương đã trình bày, không ai phủ nhận tính cách lịch sử, xã hội và tôn giáo của Gia Đình Phật Tử. Không phải là một tổ chức ngẫu sinh, Gia Đình Phật Tử thực sự là kết quả về ước vọng của một tình trạng lịch sử, của một nhu cầu xã hội. Và một khi đã do lịch sử và xã hội mà hình thành, Gia Đình Phật Tử phải có những sứ mệnh đối với lịch sử và xã hội.
Trước khi xác Định các sứ mệnh thiết yếu, công việc tiên quyết là phải xác Định vị trí của Gia Đình Phật Tử cho xác đáng.
Từ thời Pháp thuộc, kháng chiến, cho tới cảnh đất nước phân ly hiện nay, Gia Đình Phật Tử chưa hề từ bỏ sứ mệnh lịch sử của mình. Dưới thời Pháp thuộc, Gia Đình Phật Tử dù không phải là một lực lượng đối kháng về chính trị nhưng hoạt động của Gia Đình Phật Tử không đi ra ngoài chính sách bất hợp tác cố hữu. Trong cuộc cách mạng 1945, đa số đoàn viên Gia Đình Phật Tử đã là những chiến sĩ. Có người đã xung phong vào hàng ngũ giải phóng quân để làm tròn phận sự cứu quốc. Trước mắt thanh niên hồi đó chỉ có một đối tượng chính là diệt xâm lăng. Trong mọi phạm vi hoạt động đều có tiềm ẩn hình bóng của người con Phật. Đến thời kỳ kháng chiến, đa số Huynh trưởng và đoàn sinh của Gia Dình Phật Tử đã tạm "cởi lam y, khoát chiến bào". Mười năm chống đối gian khổ, người ở khu, kẻ ở thành, bằng vũ khí, bằng văn hóa; Gia Đình Phật Tử không phút giây rời bỏ vai trò cứu quốc. Dưới thời Ngô bạo chúa, Gia Đình Phật Tử chống đối ra sao, cuộc đảo chánh 1.11.1963 đã thuyết minh. Và tiếp sau đó, Gia Đình Phật Tử tiếp tục đi vào lòng cuộc chiến đấu của người dân đau khổ vì chiến tranh, vì chia cắt. Rút lại trước sau,Gia Đình Phật Tử chưa từng từ bỏ sự đóng góp bằng cân não, bằng xương máu vào cuộc phục hưng Độc lập và Thống nhất cho dân tộc.
Là một xã hội đầy dẫy mê tín, dị đoan, dốt nát, đau khổ về tinh thần; thiếu thốn, bệnh tật, đói rét về vật chất, Việt Nam của chúng ta từ bao lâu nay đã trở thành một cơ thể lâm trọng bệnh. Một mặt chiến chinh xâu xé, mặt khác bọn ngoại nhân và lũ tôi đòi đua nhau bòn rút tủy não của đồng bào ruột thịt để xây đắp tham vọng. Tình trạng khốn khổ đó đã làm cho xã hội trở thành một môi trường đầy dẫy vi trùng. Gia Đình Phật Tử ngoài nhiệm vụ chống đối các bất công trước mắt còn nghĩ tới việc bảo vệ thế hệ tương lai. Là một tổ chức giáo dục, Gia Đình Phật Tử nhắm vai trò gìn giữ thanh thiếu nhi tránh khỏi con đường sa đọa, vong bản. Đương nhiên, trong hiện tại, đường lối giáo dục của Gia Đình Phật Tử chưa được phổ biến sâu rộng lắm, nguyên nhân chẳng phải là vì nó không kiến hiệu mà chính vì "hoàn cảnh thê thảm trước mắt đã làm cho một số người quên mất tương lai". Gia Đình Phật Tử lo cho tương lai tất sẽ bị dèm pha là đeo đuổi ảo vọng! Phải nên hiểu rằng: một lý thuyết muốn thực hiện bao giờ cũng phải chịu "thử lửa" rất lâu. Phải đợi đến Mạnh Tử đời mới biết có Khổng Tử; đến A Dục, Phật giáo mới quảng bá; đến Lénine, Karl Marx mới có chân đứng; đến Trang TửTrang Tử, Liệt Tử, con đường siêu thoát của Lão Tử mới sáng tỏ. Như vậy, chờ đợi một chu kỳ tái hiện không phải là lý do để cho kẻ chưa thấy phải bỏ cuộc. Những điều "chưa thấy" không phải là "không thấy" được. Triết gia, bác học, thánh nhân đâu có thỏa mãn với cái "đã thấy" mà chỉ lo tìm cái "chưa thấy, không thấy" mà thôi. Xin hãy bình tâm, ánh sáng của Gia Đình Phật Tử trong xã hội sau hai mươi năm đã tinh luyện bắt đầu tỏa sáng rồi đó!
Với mục đích giáo dục, hoạt động của Gia Đình Phật Tử liên hệ mật thiết với sinh hoạt văn hóa. Trong bao năm qua, với chủ trương rõ rệt, Gia Đình Phật Tử nhất thiết loại bỏ sự có mặt của thứ văn nghệ diễm tình, trụy lạc. Đọc lại các tác phẩm văn chương của miền Nam Việt Nam ta phải nhức mắt vì một chữ tình diêm dúa, bệnh hoạn. Gia Đình Phật Tử không hề dung túng loại văn chương sực nức mùi son phấn, căm thù, máy móc, loại tiểu thuyết ca tụng những phóng túng vô trách nhiệm. Còn gì buồn bằng nghe một thiếu nhi tuổi còn giọt máu, tốc hãy còn xanh mà dám viết: "úp mặt công viên, nức nở giữa lòng thế kỷ… tốc ngả bờ vai, đời lên màu tím, ngõ về hun hút đêm thâu!" Thật là sáo ngữ, giả tạo đánh dấu sự trống rỗng của tâm hồn. Thứ đến, Gia Đình Phật Tử cũng phủ nhận sự hiện diện của loại ca nhạc hạ cấp, ca tụng những mối tình truy hoan sặc mùi "tiền chiến", những tiếng ca não ruột của người "thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xương Hậu đình hoa". Biên giả không hiểu cái hồi Chiêm Thành sắp mất nước họ ca hát ra làm sao, chứ như cái thứ văn chương, ca nhạc rầu rỉ của miền Nam bây giờ chỉ là một màu tím. Tím ngắt, tím bầm như một tử thi sắp thối tha rữa nát. Có lẽ tìm một tác phẩm không có màu tím, màu hoa đám tang ấy trong thơ văn bây giờ còn khó hơn tìm một người sống sót giữa đám tử thi ngoài chiến địa.
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng "Hậu đình hoa".
Đêm ghé Tần Hoài cạnh tửu gia
Con hát đâu hay hờn mất nước
Bên sông mãi hát “Hậu đình hoa”
Hậu đình hoa: “Hoa ở sân sau”. Đây là một tập ca khúc do các cung nữ, phi tần hát của Trần Hậu chủ đời Hậu Trần, thời Nam Bắc triều .
Trần Hậu chủ (583-587) là một ông vua nổi tiếng tài tử phong lưu, cùng đám cận thần đàn đúm ăn chơi hoang dâm xa xỉ, bỏ bê dân tình cơ cực lầm than.
Hằng đêm, Trần Hậu chủ bày yến tiệc cùng mỹ nhân uống rượu tại lầu Lâm Xuân, đám cung nữ hát xướng thâu đêm, nên được gọi là Trường Dạ Ẩm. Những khúc nhạc lả lướt ấy được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa. Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng.
Nhà Hậu Trần bị diệt vong, sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát ‘Hậu Đình Hoa’ – ủy mỵ, dâm dật. Nên về sau “Hậu Đình Hoa” dùng ám chỉ về khúc ca vong quốc.
Đỗ Mục nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm khuya, hơi sương mù như khói tỏa trên mặt nước. Bấy giờ trong quán, khách còn đang say sưa, bên cạnh gái buôn son bán phấn đem tiếng hát để mua vui. Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông đưa sang, Đỗ Mục xúc cảnh sinh tình và viết nên ‘Bạc Tần Hoài ‘